Montag, 29. September 2014

Đỉnh Cấp Lưu Manh trong Cung Ðình Ðỏ : Hồ Chí Minh

Nhân vật Việt cộng số 1:
Hồ Chí Minh (1890-1969)

Khó mà biết rõ thời thế tạo anh hùng hay anh hùng tạo thời thế. Nhưng có thể biết chắc là rất ít anh hùng tạo nổi thời thế, mà thường thì thời thế tạo anh hùng. Tất nhiên những người này cũng vẫn phải có một số bản lĩnh và biết lợi dụng thời thế phần nào.

Một người như thế, mà lịch sử Việt Nam sẽ không bao giờ quên lãng được, chính là ông Hồ.

Cứ tạm cho năm sinh 1892, do chính Hồ khai trong đơn xin học Trường Thuộc Ðịa (école Coloniale) năm 1911, là đúng, thì cậu thanh niên 19 tuổi, học không hay cày không biết đó, ở trong hoàn cảnh chật hẹp của một thuộc địa, không thể có tương lai, bằng cứ vào chính cụ phó bảng thân phụ cậu (cũng lại theo lời khai của cậu) còn lận đận vì miếng cơm manh áo. Cậu đành phiêu lưu mạo hiểm, làm bồi tàu sang mẫu quốc, với mục đích làm quan tắt, cộng tác với nhà nước bảo hộ, mưu cầu công danh, chớ không hề ái quốc ái quần gì.
Nhưng cậu bị Trường Thuộc Ðịa từ chối thẳng thừng vì không có điều kiện tối thiểu, lại đành lang thang kiếm sống. Hai đế quốc Anh, Pháp đều đã quá thừa tay sai có trình độ, không còn chỗ cho cậu len chân.

Mãi đến 1917, cậu mới trở lại Paris. Nhờ nhân danh "thân phụ" là cụ phó bảng, cậu có may mắn được gặp bốn "con rồng" kiệt hiệt thời đó, tá túc hoạt động tại Paris, cùng đóng đô tại số 6 Villa des Gobelins (Paris 13è): cụ phó bảng Phan Chu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, chuẩn cử nhân hóa học Nguyễn Thế Truyền, và chuẩn cử nhân luật khoa Nguyễn An Ninh. Bốn người tài trí đều một trời một vực so với cậu, mặc dù Truyền và Ninh kém Hồ đến hàng chục tuổi.

Dù có muốn làm chiến sĩ quốc gia, cậu cũng tự thấy chỉ là con số không đối với các người Việt khác tại Pháp hồi đó, nói chi đến bốn con rồng mà cậu đóng vai "tà loọc". Nhưng có lẽ cả bốn người đều bị theo dõi, bị làm khó dễ, nên vớ được anh chàng ít học lù khù, liền dùng làm bình phong. Do đó, mọi sinh hoạt, bài vở đều đứng tên tập thể - trước là Nguyễn ố Pháp, sau bị các bạn người Pháp phản đối, đổi sang là Nguyễn ái Quốc - và cho cậu làm liên lạc, giao bài.

(Ðiều đó rõ ràng, là vì, cho đến ngày 27-2-1924, lúc cậu đã là Kominternchik, gián điệp cộng sản quốc tế chính cống, mà bản "Quốc tế lao nông kính cáo" của cậu, viết bằng tiếng mẹ đẻ cho quốc tế cộng sản để gửi nhân dân Ðông Pháp, nguyên văn vẫn còn như thế này:

Vừa năm năm nay, ở kinh đô nước Nga, một nước thật là dân chủ ở trần gian chưa có nước như thế, có lập một Hội để họp tất cả bao nhiêu người làm ăn. Hội ấy gọi là Quốc tế cộng sản. Nhờ mấy người đứng đầu can đảm anh hùng mở dựng thì Hội ấy bây giờ mạnh lắm để giúp hàng triệu hàng muôn người làm ăn ngũ phương, nhất là mấy dân khốn khổ thuộc về thuộc địa, như nhân dân An-nam ta vậy, khốn khổ vì tại mấy quân dã man Tây cướp giết người An-nam lấy tiền...

... Hội mới mất ông Lê-nin làm chủ, can đảm, khôn ngoan và rất tử tế. Nhưng mà Hội vẫn cứ chắc thế nào mình cứ đi đầu cho đến nơi. Khắp cả trần gian đâu đâu nghe thấy tiếng Hội, trông thấy cờ hồng của Hội thì run, thì giật mình giật mẩy? Thời mình thắng trận gần đến.

Anh em ơi! Anh em ơi!
Vô sản toàn thế giới, hãy liên hiệp lại!
(Trích trong "Bác Hồ trên đất nước Lê-nin", của Hồng Hà).

Tiếng mẹ đẻ, vào năm đó, mà cậu viết như thế, làm sao cậu có đủ lý luận, vốn liếng để viết các bài ký tên Nguyễn ái Quốc trước kia, bằng ngoại ngữ? Trong "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch", chính cậu là tác giả thú nhận: Lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp.

Sau đó, bốn vị kia về nước hoạt động thì cậu ở lại thực hiện "cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông gõ trống" chứ nhất định không "trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào, đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế". Cậu dùng cái lối mà cụ Phan Chu Trinh gọi là "phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội", tức cái cách ăn chắc, gọi người trong nước ra giúp mình, đợi thời cơ thuận tiện mới về (thư của Phan Chu Trinh gửi Nguyễn Tất Thành).
Giả thử Hồ được theo học Trường Thuộc Ðịa thì hẳn nước Pháp đã có một công chức xuất sắc. Và sẽ không có Nguyễn ái Quốc ở Tours năm 1920 và ở Nga năm 1923 để trở thành một Kominternchik vĩ đại. Mà Việt Nam thoát cảnh điêu linh lầm than chưa hề có trong lịch sử dân tộc.

Bản chất Hồ là một bầy tôi khuyển mã. Không được Pháp dùng, ông đã tìm ra thiên triều, minh chúa ở cái tuổi tam thập nhi lập nơi tổ quốc Nga Xô và bậc thầy Stalin, để rồi lập những thành tích không tiền khoáng hậu.

Quả thế, ngoài Lenin và Stalin, không một nhân viên đệ tam quốc tế nào trung thành tuyệt đối, đạt được những thành quả lớn lao cho cộng sản như Hồ.
Ðảng Cộng Sản Việt Nam cố tình che giấu sự thực và muốn đánh lừa mọi người là đảng và lãnh tụ cũng yêu nước và sáng suốt, nhưng lại luôn luôn đề cao nhiệm vụ đối với thiên triều, nên không thể lấp liếm bản chất nô lệ.

Vì làm thế nào chứng minh được là lực lượng Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, vừa thành lập ngày 3 tháng Hai năm 1930, mà đã đủ mạnh để kế tục sự nghiệp bài phong đả thực của Việt Nam Quốc Dân Ðảng vừa bị thất bại lớn lao ngày 10 cùng tháng. Vậy mà chỉ tháng Chín năm đó, họ đã phát động phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Rõ ràng là vì vào thời điểm đó, Nga Xô cần các đảng cộng sản chư hầu quấy phá đế quốc thực dân, để phục vụ lợi ích đế quốc đỏ. Vậy mà khi thất bại thảm hại, họ lại mang trách nhiệm đổ cho các đảng viên trong nước, là địa phương manh động, còn trung ương quốc tế, lãnh tụ không có lỗi gì.

Năm 1940 cũng thế. Vì muốn quấy phá thực dân Pháp ở thuộc địa, tạo thuận lợi cho Ðức Quốc Xã và Nhật Phát Xít, lúc này là đồng minh của Nga Xô, họ dựng lên Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Khi không thành công, họ cũng lại đổ cho địa phương tự phát, mặc dù lúc đó trung ương đảng bộ của họ nằm ngay tại miền Nam!
Cứ như thế, bất kỳ khi nào có chỉ thị, có lợi cho thiên triều Nga Xô là Hồ bắt đàn em trong nước thi hành. Thành công thì là do lãnh tụ sáng suốt, thất bại thì là do cấp dưới bất tài; bất kể phải trả giá nào, tốn bao nhiêu xương máu của đồng bào ruột thịt, miễn sao quan thầy vui lòng và có lợi cho Nga Xô thì thôi.

Với những người mà giờ này còn băn khoăn thắc mắc về cái bí danh oái oăm và mỉa mai của lịch sử - ông Nguyễn Yêu Nước, Nguyễn le Patriote, tức Nguyễn ái Quốc - rằng người cộng sản chân chính đó có yêu nước hay không, thiết tưởng nên đọc lại chính lời ông, lời những đồng chí, cơ quan của ông xác định:
Trên tờ Nhân Ðạo (Humanité) ngày 25 tháng Năm năm 1922, trước khi đi Nga, ông Nguyễn... ái Quốc viết:

Trước mắt người bản xứ, chủ nghĩa bôn sê vích - danh từ này thì thường được giai cấp tư sản dùng đến luôn nên đặc sắc và mạnh nghĩa hơn - có nghĩa là: hoặc sự phá hoại tất cả, hoặc sự giải phóng khỏi ách nước ngoài. Nghĩa thứ nhất (gán cho danh từ ấy) làm cho quần chúng vô học và nhút nhát xa lánh chúng ta; nghĩa thứ hai thì dẫn họ đến chủ nghĩa quốc gia. Và cả hai đều nguy hiểm cả" và "Chủ nghĩa quốc gia (yêu nước) là một hiện tượng nguy hiểm đe dọa việc bành trướng chủ nghĩa cộng sản ở các thuộc địa, nếu ta không kiểm soát ngăn chặn nó.

Tại Nga, ở Ủy Ban Trung Ương Quốc tế Cộng Sản tháng Sáu năm 1923, khi ông Nguyễn... ái Quốc hiện diện, Zinoviev phát biểu:

Ðiều mà chúng ta bắt buộc các đảng cộng sản phải làm là tìm cách sử dụng các phần tử dân tộc chống lại giai cấp tư sản. Các đảng cộng sản phải thúc đẩy các phần tử bất mãn chống lại chế độ, như Ðảng Cộng Sản Nga đã sử dụng các người dân tộc Ukraine để chống lại Kerensky. Dĩ nhiên chúng ta không bao giờ chấp nhận các phần tử dân tộc Ukraine vào Ðảng Cộng Sản Nga. Chúng ta chỉ lợi dụng sự bất mãn của họ để phục vụ cách mạng vô sản.

Tờ Thanh Niên của ông Nguyễn... ái Quốc ngày 20 tháng 12 năm l926 viết: "Chủ nghĩa ái quốc là một điều nguy hiểm" và "Giai cấp vô sản không có tổ quốc".
Dưới đề mục "Những nhiệm vụ của vô sản quốc tế đối với Liên Xô", tại Ðại Hội Quốc Tế Vô Sản lần thứ 6 (1928) mà ông là ủy viên, ông Nguyễn... ái Quốc khẳng định:
Liên Xô là tổ quốc của vô sản, cột trụ vững chắc nhất của những thực hiện của vô sản, thành tố chính của sự giải phóng vô sản thế giới. Ðiều này đòi hỏi vô sản quốc tế đẩy mạnh sự xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và bảo vệ bằng mọi cách đất nước của vô sản chuyên chính chống lại những tấn công của các thế lực đế quốc...
Trong trường hợp các đế quốc tấn công hoặc phát động chiến tranh chống Liên Xô, vô sản quốc tế phải quyết liệt phát động những phong trào quần chúng đấu tranh để lật đổ các chính quyền đế quốc...

Khẩu hiệu của vô sản quốc tế phải là vô sản chuyên chính và liên minh với Liên Xô. Các thuộc địa, nhất là của một đế quốc đang gây hấn với Liên Xô, cần phải lợi dụng triệt để sự kiện quân đội đế quốc bận chiếm đóng những nơi khác mà phát động cuộc đấu tranh chống đế quốc, tổ chức hoạt động cách mạng lật đổ ách thống trị của đế quốc và giành độc lập.

Tờ Người Cùng Khổ (Le Paria) của ông Nguyễn... ái Quốc năm 1931 viết:
Những tên tư sản, trí thức phản cách mạng đã phô trương hai từ tổ quốc để khai thác giai cấp vô sản, nhằm phục vụ cho những quyền lợi vị kỷ của chúng. Tổ quốc không nhất thiết phải bao gồm những người cùng một màu da hoặc cùng một ngôn ngữ. Tổ quốc là sức mạnh chính trị của giai cấp. Vô sản Ðông Dương không có tổ quốc.

Tờ Bôn Sê Vích cũng của ông Nguyễn... ái Quốc, năm 1934, viết:
Vẫn có người cho rằng phải thực hiện dân tộc cách mạng trước cuộc cách mạng thế giới. Những người này khẳng định là mỗi nước phải làm cách mạng ở nước mình trước khi liên kết với các nước khác để tranh đấu chống chủ nghĩa tư bản và thực hiện cuộc cách mạng thế giới. Ðây là một sai lầm nghiêm trọng vô cùng độc hại cho đảng. Ðó là tàn dư của các đảng Tân Việt và Thanh Niên. Vì tàn dư này còn hiện hữu nơi một số đồng chí, đảng phải có bổn phận tiêu diệt nó.
Vậy, trước và sau chuyến đi Nga đầu tiên, ông không hề chao đảo. Chẳng còn gì để nghi ngờ, là Kominternchik gốc Việt đầu tiên, tức một gián điệp quốc tế, được trọng dụng, được đãi ngộ hậu hĩnh, được huấn luyện chu đáo, từ một kẻ bị hất hủi, Hồ đã tìm ra con đường sự nghiệp cho mình.

Phương châm hoạt động của ông minh bạch. Lenin đã dạy: "Ðiều gì lợi ích thì là đạo đức." Và: "Hợp đạo lý là những gì giúp cách mạng thành công. Phản đạo lý là những gì làm trở ngại cách mạng." Cùng: "Dù cuộc cách mạng 1917 có tiêu diệt tại Nga Xô hàng chục triệu người chăng nữa, sự tiêu hủy đó không thấm gì với mục đích cao cả mà chúng ta theo đuổi"!

Một sự tình cờ lịch sử là, cũng đúng thời điểm này (1923), Tưởng Giới Thạch, một người đồng trang lứa, được gửi sang Nga học. Chỉ sau mấy tháng lưu ngụ tại đây, Tưởng đã nhận ngay ra thực chất cộng sản. Ông về nước và trở thành người chống cộng kiên cường cho đến tận ngày từ giã cõi đời (1978).

Nhưng Hồ, được những người Việt quan tâm đến thời cuộc biết qua bí danh Nguyễn... ái Quốc, nhân viên Ðệ Tam Quốc Tế, thì chỉ sau hơn một năm ở Nga, tháng 11, 1924 được chỉ thị về công tác với cộng sản Trung Hoa, tiếp tay phái đoàn Borodin, chức vụ Ủy Viên Bộ Phương Ðông, phụ trách Cục Phương Nam, chỉ đạo phong trào cộng sản các nước Ðông Nam á, thực chất là gián điệp thu thập tin tức, vì lúc này Nga Xô thất bại ở Âu Châu, chuyển hướng, nhòm ngó á Châu.
Và, chỉ mới tháng 2, 1925, ông đã báo cáo được cho Ðệ Tam Quốc Tế:
Chúng tôi đã lập được một nhóm bí mật chín người. Hai người đã được phái về nước. Ba người ra mặt trận (trong quân đội của ông Tôn Dật Tiên). Một đi công tác quân sự (cho Quốc Dân Ðảng). Trong số những người đó có năm đảng viên dự bị của đảng cộng sản. Chúng tôi còn có hai đoàn viên dự bị đoàn thanh niên cộng sản.

Chúng tôi có ở Xiêm một sơ sở khá vững chắc... Những việc chúng tôi phải làm trong năm nay:

a) đặt một cơ sở hoạt động ở Quảng Châu;
b) đặt những cơ sở liên lạc:
1) ở Quảng Tây,
2) ở cực nam tỉnh Quảng Ðông,
3) ở Băng Cốc,
4) ở Tích Kho (cuối đường xe lửa Băng Cốc và cách Lạc Phách 20 ngày đi bộ),
5) ở Lạc Phách, trên tả ngạn sông Mê Kông và cách Trung Kỳ 15 ngày đi bộ;
c) phái một đồng chí về trong nước để thu thập và chuyển tin tức;
d) phái một hay nhiều đồng chí đi làm trên các tàu chạy đường Trung Quốc-Ðông Dương. Tất cả những công việc cần thiết đó tốn 5.000 đô la...

Rõ ràng tác phong một gián điệp tay sai ham tiền!

"Nhóm bí mật" thực ra chỉ là nhóm quốc gia Tâm Tâm Xã vốn đang hoạt động theo Việt Nam Quốc Dân Ðảng của cụ Phan Bội Châu. Hồ chỉ có công móc nối cho ngả sang chiều quốc tế.

Và để tiêu diệt các thành phần quốc gia uy tín, giành độc quyền kết nạp người, cùng lãnh thưởng lớn, ngày 1-7-1925, có lẽ ông đã chủ động cùng Lâm Ðức Thụ (trong nhóm Tâm Tâm Xã) chỉ điểm cho Pháp bắt cụ Phan lấy 150,000 đồng (giấc mơ của nông dân Việt Nam thời đó là con trâu, giá chỉ cỡ 5 đồng!) và nhất là tất cả các người yêu nước nào không chịu theo đường lối phản bội tổ quốc của ông.
Năm 1927, Tưởng Giới Thạch, người đi Nga về, ra tay tàn sát cộng sản. Hồ theo thầy là Borodine chạy về Nga.

Cuối năm 1928, ông được phái đến Xiêm gây dựng đảng, xâm nhập các tổ chức, sửa soạn thành lập chính quyền xô viết.

Năm 1930, ông được lịnh Ðệ Tam Quốc Tế sát nhập ba đảng cộng sản Bắc Trung Nam Việt Nam thành Ðảng Cộng Sản Việt Nam (sau theo lịnh Moskva, không được lấy tên đó, mà phải đổi là Ðảng Cộng Sản Ðông Dương; tổng bí thư kế tiếp nhau là Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh) và thành lập Ðảng Cộng Sản Xiêm cùng Ðảng Cộng Sản Mã Lai.

Tháng 6, 1931, ông bị chính quyền Hong Kong bắt hai lần, giam giữ một năm rưỡi, rồi bị Nga Xô kỷ luật. Ở Ðại Hội Ðệ Tam Quốc Tế Kỳ 7, năm 1935, ông chỉ còn là đại biểu tư vấn, thư ký cho Lê Hồng Phong, Ủy Viên Dự Khuyết Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản.

Chỉ năm 1938 ông mới được trở lại Trung Hoa, và mãi đầu năm 1941, ông mới về nước, lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, đặt căn cứ tại một làng biên giới thuộc Cao Bằng, nhập nhằng mạo tên Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh (Việt Minh), là tổ chức do ông Hồ Học Lãm lập ra và đăng ký ở Nam Kinh từ năm 1936 (?), để đội lốt quốc gia, xuất phát từ ý đồ ông Hồ Học Lãm không phải là cộng sản.
Ông về nước với quyết tâm biến Việt Nam thành chư hầu của Nga Xô. Nhưng rút lại, sự thiển cận của ông khiến ông cũng chỉ thành công có nửa chừng: ông biến được Việt Nam thành chư hầu khuyển mã, thì thiên triều "tổ quốc Nga Xô" của ông ngày nay tiêu tùng!

Lột Trần Huyền Thoại Hồ Chí Minh

1.- HUYỀN THOẠI VỀ NGƯỜI CHA
Theo sách Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, của nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội), Hồ Chí Minh 'sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân. Cụ thân sinh ra Người [họ Hồ] là Nguyễn Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929) ...đỗ phó bảng và sống thanh bạch bằng nghề dạy học. Đối với các con, cụ giáo dục ý thức lao động và cho học tập để hiểu 'đạo lý làm người'. Sau khi đỗ phó bảng, bị bọn thống trị thúc ép nhiều lần, cụ ra làm quan, nhưng thường tỏ thái độ tiêu cực, không hợp tác với chúng. Cụ thường nói: 'Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ', nghĩa là 'Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn'. Vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp, cho nên sau một thời gian rất ngắn, cụ bị chúng cách chức. Cụ vào Nam bộ làm nghề thầy thuốc, sống cuộc đời thanh bạch, cho đến lúc từ trần.

Ông Nguyễn Sinh Sắc quả thật đã đỗ phó bảng năm 1901 (tân sửu) cùng một lần với Nguyễn Đình Hiến, Phan Chu Trinh.. Tuy nhiên, Nguyễn Sinh Sắc không hề bị 'bọn thống trị thúc ép nhiều lần' sau khi đỗ phó bảng mới chịu ra làm quan. Ông Sắc đã xin đi làm quan ngay sau khi đỗ cử nhân và trước khi đỗ phó bảng. Nguyên vào năm 1894, Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An. Năm sau (1895), ông Sắc vào Huế thi hội bị hỏng, đã xin đi làm hành tẩu bộ Hộ. Ba năm sau, ông hỏng kỳ thi hội một lần nữa vào năm 1898. Trước khi dự kỳ thi hội năm 1901, ông Sắc còn tham dự hội đồng giám khảo chấm thi kỳ thi hương tại Bình Định năm 1897 và Thanh Hóa năm 1900. Sau khi đỗ phó bảng trong kỳ thi hội và thi đình năm 1901, ông làm thừa biện bộ Lễ từ 1902 đến 1909, rồi đi tri huyện Bình Khê (Bình Định) tháng 5 năm đó. Từ thừa biện đi tri huyện là thăng chức chứ không phải xuống chức.

Nguyễn Sinh Sắc bị sa thải chứ không phải bị cách chức.(6) Lý do sa thải cũng không phải vì 'vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp '. Ông bị sa thải vì đã hành xử tàn bạo với dân chúng. Trong một cơn say rượu, Nguyễn Sinh Sắc đã dùng roi mây trừng phạt và đánh chết một người tù vào tháng 1-1910. Gia đình người nầy kiện lên cấp trên. Dù tri huyện Nguyễn Sinh Sắc đã chối cãi rằng không phải vì trận đòn của ông mà người kia chết, ông vẫn bị triều đình ra sắc chỉ ngày 17-9-1910 phạt đánh 100 trượng. Hình phạt nầy được chuyển đổi qua hạ bốn cấp quan lại và sa thải.(7) Lý do chuyển đổi hình phạt để Nguyễn Sinh Sắc khỏi bị đánh đòn có lẽ nhắm giữ thể diện của một quan chức triều đình, và nhất là vị nầy lại là người có học vị cao. Ông Sắc nghiện rượu từ khi còn ở Huế. Chị của Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), vào Huế thăm cha năm 1906. 'Bà không thể chịu đựng lâu ngày thái độ cộc cằn thô lỗ của cha bà, nay đã mắc phải tật nghiện rượu và thường hay đánh đập bà '.(8) Do đó, năm sau bà bỏ Huế ra Nghệ An trở lại, mà không sống với cha.

Phải chăng câu: 'Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ ' (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn) là do những cán bộ cộng sản bịa ra, rồi gán cho ông Nguyễn Sinh Sắc để đả kích chế độ quân chủ? Hay phải chăng vì bị đuổi ra khỏi ngành quan lại nên Nguyễn Sinh Sắc mới bất mãn và thốt lên câu: 'Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ ' (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Nếu không, Nguyễn Sinh Sắc hăng hái xin đi làm quan làm gì, và sau nầy con ông, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) còn gởi thư đến viên Khâm sứ Pháp tại Huế xin cho ông một chức quan nhỏ nữa.

Ngày 26-2-1911, Nguyễn Sinh Sắc xuống tàu từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ông ở lại Sài Gòn một thời gian, dạy chữ Nho cho nhà báo Diệp Văn Kỳ,(9) rồi đi Lộc Ninh làm giám thị đồn điền. Từ đó, ông không bao giờ trở ra Nghệ An. Ông sống lang thang ở miền Nam bằng nghề đông y, và nghề viết liễn đối cho dân chúng. Gần cuối đời, ông đến định cư tại làng Hội Hòa An, Sa Đec, và từ trần ngày 29-11-1929.(10)

Khi Nguyễn Sinh Sắc bị bãi chức và sống lang thang nghèo khổ ở miền Nam, con ông ta là Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, ra nước ngoài năm 1911, đã viết thư từ New York ngày 15-12-1912 cho viên khâm sứ Pháp tại Huế tha thiết '... cầu mong Ngài [chỉ khâm sứ Pháp] vui lòng cho cha tôi [cha của Thành tức ông Sắc] được nhận một công việc như thừa biện ở các bộ, hoặc huấn đạo, hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quý của Ngài...'(11)

Vậy huyền thoại về người cha của Hồ Chí Minh là một người yêu nước, chống đối chính quyền Pháp nên bị cách chức, là chuyện hoàn toàn bịa đặt do Ban Nghiên cứu Lịch sử trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam đưa ra nhắm là tăng giá trị cho lãnh tụ của họ.

Tưởng cũng nên thêm ở đây một phát hiện của ông Trần Quốc Vượng, sử gia Hà Nội hiện nay. Trong sách Trong cõi của Trần Quốc Vượng, có bài 'Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)'. Phần cuối của bài nầy cho biết rằng ông Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm. Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Ông Trần Quốc Vượng viết: 'Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm'. (12)

2.- HUYỀN THOẠI RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC 
Tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam đều viết rằng ngày 5-6-1911, thanh niên Nguyễn Tất Thành đã xuống tàu Amiral Latouche-Tréville để ra đi tìm đường cứu nước. Sau đây là lời trong sách Lịch sử Việt Nam của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội:

'Sự thất bại của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục của cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ mà Người [Hồ Chí Minh] từng tham gia khi đang học ở trường Quốc Học Huế, đã thôi thúc Người [HCM] hướng về các nước Tây Âu, mong muốn được đến 'tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những Tự do, Bình đẳng, Bác ái'. Sau khi rời Huế vào Phan Thiết ... ...Được ít lâu, lấy tên là Văn Ba, Người [HCM] xin làm phụ bếp trên chiếc tàu thủy Đô đốc La Tusơ Tơrêvin (La Touche Tréville), thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp, để đi ra nước ngoài 'xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào'...'(13)

Sách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp của nhà xuất bản Sự Thật giải thích sự ra đi của Hồ Chí Minh cũng gần giống như thế: '... Ít lâu sau, Hồ Chủ tịch vào Sài Gòn. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác gì Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào cũng bị đọa đày, khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về 'giúp đỡ đồng bào' đánh đuổi thực dân Pháp. Ý định ấy của Người [HCM] đã dẫn Người từng bước đi tới tìm một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta.'(14)

Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cũng do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành, trả lời phỏng vấn tác giả Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh nói về lý do ra đi như sau:'...Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta...'(15)

Trần Dân Tiên chính lại là Hồ Chí Minh. Ông dùng một tên khác viết sách tự ca tụng mình. Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, đã có nhiều người viết sách về hoạt động của mình, đôi khi để tự khen mình, hoặc để biện hộ cho những việc làm của mình, nhưng họ đề tên thật, chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Hồ Chí Minh dùng một tên khác tự ca tụng mình là một sáng kiến kỳ lạ chưa một người tự trọng nào dám nghĩ đến.

Như thế, qua các sách của nhà cầm quyền cộng sản và qua chính những lời viết của Hồ Chí Minh, ông ta đi ra nước ngoài nhắm mục đích tìm đường cứu nước, nhưng trong thời gian gần đây, nhiều tác giả đã tìm được những chứng liệu cụ thể cho thấy rằng Hồ Chí Minh ra đi không phải để tìm đường cứu nước, mà chỉ vì lý do kinh tế gia đình.

Trong bài 'Từ mộng làm quan đến đường cách mạng Hồ Chí Minh và Trường Thuộc Địa', hai tác giả Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đã phổ biến ảnh sao (photocopy) hai lá thư của Nguyễn Tất Thành đề ngày 15-9-1911 gởi cho tổng thống Pháp và bộ trưởng bộ Thuộc Địa Pháp, xin hai ông ban ân huệ cho Thành được đặc cách vào học Trường Thuộc Địa Paris, nơi đào tạo quan lại cho các thuộc địa Pháp trong đó có Đông Dương. Phần chính trong nội dung của hai lá thư nầy hoàn toàn giống nhau. Đó là: 'Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường Thuộc Địa. Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville). Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn...'(16)

Hai lá đơn trên đều bị bác, Nguyễn Tất Thành tiếp tục hành nghề trên các tàu biển. Ngày 15-12-1912, từ New York, Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Thành gởi đến viên khâm sứ Pháp tại Huế một lá thư rất thống thiết xin một đặc ân là ban cho cha là Nguyễn Sinh Sắc, một chức việc nhỏ như giáo thụ hay huấn đạo, để ông nầy có điều kiện sinh sống.

Hai lá đơn trên cùng với lá thư gởi năn nỉ viên khâm sứ Pháp tại Huế cho thấy lúc mới ra đi, Nguyễn Tất Thành chỉ nhắm mục đích sinh nhai. Vì sinh kế gia đình, lúc đó Nguyễn Tất Thành sẵn sàng thỏa hiệp với người Pháp để kiếm một chức quan cho cá nhân ông (bằng cách xin vào học Trường Thuộc Địa), hoặc cho phụ thân ông.

Điều nầy là chuyện bình thường của đời sống con người. Lớn lên, ai ai cũng phải kiếm cách mưu sinh để tự nuôi sống mình và nuôi sống gia đình. Hơn nữa, điều nầy còn có nghĩa là Nguyễn Tất Thành không phải ra đi tìm đường cứu nước. Việc ra đi tìm đường cứu nước chỉ là sản phẩm tưởng tượng sau nầy của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, nhắm làm đẹp cho việc ra đi của họ Hồ để lôi cuốn quần chúng trên đường hoạt động chính trị.

3.- HUYỀN THOẠI CUỘC SỐNG ĐỘC THÂN GIẢN DỊ 
Hồ Chí Minh cũng như ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương luôn luôn đề cao rằng ông ta suốt đời sống độc thân, không lập gia đình, để có thể toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Sự thật, dù Hồ Chí Minh đi đâu, ở nơi nào, cũng đều có bóng dáng của người đàn bà trong suốt cuộc đời hoạt động của ông.

Theo giáo sư Nguyễn Thế Anh, khi hành nghề nhiếp ảnh ở Paris, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã gởi thư tỏ tình với cô Bourdon ngày 10-5-1923. Sau vài cuộc gặp gỡ và thư từ qua lại, cô Bourdon viết thư ngày 11-6-1923 cự tuyệt mối tình của Nguyễn Ái Quốc. Giáo sư Nguyễn Thế Anh còn trưng dẫn nhiều tài liệu cho thấy khi qua Moscow, nhà cầm quyền Liên Xô đã cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc một 'người vợ'.(17)

Đến Quảng Châu (Trung Hoa), Nguyễn Ái Quốc, lúc đó lấy tên là Lý Thụy kết hôn với một người phụ nữ Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh năm 1926. Bà nầy bị thất lạc sau cuộc chiến Quốc Cộng ở Trung Hoa năm 1927.(18) Theo một tài liệu khác, thì trong thời gian nầy, Lý Thụy còn sống với một phụ nữ Trung Hoa thứ nhì là Lý Huệ Khanh, em của Lý Huệ Quần. Lý Huệ Quần là vợ của Lâm Đức Thụ, một đồng chí của Lý Thụy. Tài liệu nầy giải thích rằng Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Lý Thụy là theo họ của Lý Huệ Khanh cho dễ hoạt động.(19) Khi cảnh sát Hồng Kông bắt Lý Thụy ngày 6-6-1931 tại thị trấn Cửu Long, gần Hồng Kông, ông đang sống với một phụ nữ Trung Hoa tên là Li Sam. Khi Lý Thụy đến Vân Nam, tướng Long Vân (Lung Yun) đã tìm cho ông một nhân tình người Tàu.(20)

Từ năm 1930, ở Hồng Kông, Lý Thụy dạy chính trị cho Nguyễn Thị Minh Khai tại trụ sở chi nhánh Bộ Đông phương của Quốc tế cộng sản. Sau một thời gian, hai người trở thành vợ chồng, và khi qua Liên Xô tham dự đại hội cộng sản quốc tế ngày 25-7-1935, hai người công khai sống chung.(21) Năm 1944, Hồ Chí Minh về hoạt động tại vùng Pắc Bó, Cao Bằng. Ở đây, theo sử gia và nhà hoạt động chính trị Trần Trọng Kim, ông Hồ sống chung với bà Đỗ Thị Lạc, bí danh 'chị Thuần', và sinh hạ một người con gái.(22)

Sau cuộc sống chung tạm bợ với Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử cho đến năm 1954, ông Hồ về Hà Nội. Theo tài liệu của Vũ Thư Hiên và Nguyễn Minh Cần, bộ chính trị đảng Lao Động đã đưa một cô gái thuộc sắc tộc Nùng ở Cao Bằng là Nông Thị Xuân (có sách viết Nguyễn Thị Xuân) về phục vụ Hồ Chí Minh năm 1955. Lúc đó, ông Hồ khoảng 65 tuổi và bà Xuân có lẽ khoảng trên dưới 22 tuổi, khá xinh đẹp: 'Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa'.(23) Năm sau, bà Xuân sinh hạ một người con trai được đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Sau một thời gian chung sống, Hồ Chí Minh sa thải bà Xuân. Viên bộ trưởng công an Hà Nội là Trần Quốc Hoàn đã hiếp dâm bà Xuân, rồi cho người thủ tiêu một cách tàn bạo.(23)

Trong thời gian nầy, đảng Lao Động còn có ý định đưa cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh uỷ viên tỉnh Thanh Hóa, về Hà Nội để làm vợ Hồ Chí Minh. Cô Phương Mai đòi công khai hóa cuộc hôn nhân giữa hai người, thì bị từ chối, nên cô rút lui.(24) Năm 1959, Đào Chú, uỷ viên thường vụ bộ chính trị đảng Cộng Sản, Phó thủ tướng chính phủ Trung Quốc sang Việt Nam nghỉ dưỡng. Một bộ trưởng trong chính phủ Hà Nội đã nói riêng với Đào Chú rằng Hồ Chí Minh muốn tái hôn với một người vợ Quảng Đông. Đào Chú rất hoan hỷ giúp đỡ, nhưng thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai đã thận trọng yêu cầu phía Việt Nam xem xét vấn đề cẩn thận. Hội nghị do Lê Duẩn triệu tập đã đi đến quyết định là phải bảo vệ hình tượng Hồ Chí Minh, nên việc ông Hồ muốn tái hôn với một phụ nữ Quảng Châu đã không thành.(25) Hồ Chí Minh cho Đào Chú biết ông muốn tái hôn, có nghĩa là ông Hồ tự thú nhận đã kết hôn một lần nào đó rồi.

Như thế huyền thoại thứ ba về Hồ Chí Minh, hy sinh cuộc sống cá nhân, sống độc thân để toàn tâm toàn ý lo việc nước, là một câu chuyện bí mật giấu đầu lòi đuôi. Hồ Chí Minh có vợ là một chuyện bình thường, nhưng bản thân Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản trước sau luôn luôn che đậy việc nầy để lừa bịp nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới. Kết hôn, lập gia đình là điều chẳng có gì xấu xa, nhưng xử sự tàn bạo với những người đã từng sống với mình, che đậy việc kết hôn, lừa bịp trắng trợn mọi người là điều mà không một nền luân lý nào chấp nhận.

Sau khi Hồ Chí Minh từ trần, trong lời kêu gọi đưa ra ngày 3-9-1969, đảng Lao Động Việt Nam (tức đảng CSVN) đã viết: '...Cuộc đời của Người là một tấm gương chói lọi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần đoàn kết, của đạo đức giản dị, khiêm tốn, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư...'(26) Hãy nhìn vào cách sống của Hồ Chí Minh để biết ông có phải là người 'giản dị, khiêm tốn' hay không?

Trước hết, chế độ Hà Nội tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh sống trong một ngôi nhà sàn bằng gỗ. Nghe chữ 'nhà sàn', người Việt thường liên tưởng đến những ngôi nhà của người miền núi, làm bằng gỗ, cách mặt đất khoảng một thước, phía dưới dùng để cất giữ dụng cụ hay nhốt gia súc, hoặc liên tưởng đến những nhà sàn của một số cư dân ven sông hay dọc các kênh đào. Những ngôi nhà sàn nầy rất đơn sơ, giản dị. Ấn tượng giản dị khiến nhiều người tưởng tượng rằng ngôi nhà sàn của Hồ Chí Minh có lẽ cũng thế, và cũng tưởng rằng Hồ Chí Minh sống rất bình dân. Thực tế hoàn toàn không như vậy. Những du khách đã từng viếng ngôi nhà sàn của ông Hồ, hoặc những ai đã từng nhìn ngôi nhà sàn nầy qua phim ảnh, rồi so sánh với nhà sàn của người miền núi hoặc của những người sống ven sông, sẽ có cảm nghĩ khác. Ngôi nhà sàn của ông Hồ có vẻ giản dị một cách cố ý, lại rất sang trọng, xây dựng bằng loại gỗ cực tốt, trang bị đầy đủ theo tiện nghi thời đại, có người chăm sóc cẩn thận, và gần như là nhà nghỉ mát mùa hè, hoặc nơi ông đón tiếp du khách. Như vậy ngôi nhà sàn của ông Hồ chỉ là loại trang trí mắc tiền.

'Áo quần lên sân khấu rất quan trọng: luôn luôn giản dị (áo quần màu chàm). Đối với Hồ cũng như Staline, Mao, hoặc Kim Nhật Thành, sự giản dị được nghiên cứu kỹ lưỡng. Áo quần cắt may thô sơ theo kiểu Kroutchev hoặc Ceaucescu, biểu tượng của một thế hệ lãnh đạo cộng sản. Điều đặc biệt của Hồ trong giới lãnh đạo cộng sản là Hồ đi dép lốp (trên nguyên tắc cắt từ lốp xe hơi) ... Còn gì ăn ảnh hơn dù là tiền chiến hay hiện đại 'Bác' Hồ đi dép lốp trên màn ảnh.'(27)

Hồ Chí Minh duy nhất chỉ để lộ một sở thích phàm tục rất người, đó là ông thích hút thuốc thơm Hoa Kỳ, đặc biệt là Camel hay Lucky Strike. (28) Không biết đây là dàn kịch để chứng tỏ ông ta cũng bình thường như mọi người, hay quả thật ông ta thích hút thuốc Mỹ. Dầu sao, cuộc sống của ông Hồ không giản dị như người ta tưởng.

Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên (chính là Hồ Chí Minh) đã viết trong phần đầu sách: 'Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được?'(29) Một người dùng một cái tên khác viết sách, tự khen mình là khiêm tốn không muốn nói về mình, rồi sau đó, suốt trong quyển sách lại kể lể tự đề cao sự nghiệp của mình, thì không biết nên xếp ông ta vào loại người gì đây?

Cuối sách nầy, Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) viết: 'Nhân dân gọi Chủ tịch là cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam.'(30). Lời nầy cho thấy Hồ Chí Minh muốn gợi ý để được người Việt Nam gọi ông là cha già của dân tộc, nhưng không được dân chúng hưởng ứng, nên ông quay qua dùng chữ 'bác'. Ở đây lại thấy ông Hồ thậm khôn, vì trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, bác là anh của cha, bác lớn hơn cha và đứng trước cha trong sinh hoạt đại gia đình, hoặc lễ nghi tế tự.

Theo Thành Tín, tức Bùi Tín, cựu đại tá quân đội cộng sản Hà Nội, cựu phó tổng biên tập báo Nhân Dân, Hồ Chí Minh công khai tự xưng là 'bác' năm 1945 trước quần chúng, lúc đó ông khoảng 55 tuổi.(31) Nói chuyện với dân chúng, trong đó có cả những người già cả, đáng tuổi ông, cha, chú, anh, chị mình mà xưng bác thì xin khỏi bàn về tư cách của 'bác'.

Chẳng những thiếu kính trọng với người đang sống, Hồ Chí Minh còn tỏ ra thiếu lễ độ đối với những người trước ông hàng mấy trăm năm. Hãy đọc những câu thơ của Hồ Chí Minh qua bài 'Ngẫu hứng' ông viết vào dịp viếng đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1226-1300) khoảng trước năm 1950:

'Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng,
Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung.
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công.

Tự phong mình là anh hùng đã là chuyện lạ, gọi một vĩ nhân của lịch sử sống cách đây hơn 600 năm bằng 'bác' là một sự vô lễ chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Khi Quốc sử quán triều Nguyễn trình Khâm định Việt sử thông giám cương mục lên vua Tự Đức (trị vì 1847-1883) duyệt, trong khung cảnh xã hội vua là thiên tử (con trời), nhà vua đã phê bình nhiều nhân vật lịch sử, đôi khi với lời lẽ gay gắt, nhưng chưa bao giờ nhà vua có ngôn ngữ sỗ sàng thiếu lễ độ như Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh tưởng rằng gọi Trần Hưng Đạo bằng 'bác' là có thể tự nâng mình lên ngang tầm với người xưa, nhưng ngược lại những lời nầy cho thấy hố cách biệt lớn lao giữa một vị thánh và một kẻ tự phụ hợm mình. Chẳng những thế, người Việt Nam xưng tụng đức Trần Hưng Đạo là thánh, nên cách xưng hô của họ Hồ xúc phạm đến cả niềm tin của dân chúng Việt Nam. Nếu nói rằng bài thơ nầy là 'thơ khẩu khí', thì càng thấy 'khẩu khí' của Hồ Chí Minh chẳng khiêm cung tý nào.

Hồ Chí Minh là chủ tịch miền Bắc, ông có quyền sống một cách tiện nghi đầy đủ để làm việc; thậm chí ông có quyền tận hưởng mọi lạc thú trên đời sau khi đã dày công cực khổ tranh đấu; ông có quyền lực to lớn của một chủ tịch nhà nước độc tài; ông có thể vượt qua luật pháp ra lệnh sinh sát mọi người; ông có thể làm bất cứ việc gì ông muốn dưới chế độ độc tài; nhưng nói rằng họ Hồ là người 'giản dị khiêm tốn' là điều hoàn toàn sai sự thật.

4.- HUYỀN THOẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Hồ Chí Minh luôn luôn hô hào đoàn kết dân tộc. Một trong những khẩu hiệu ưng ý của họ Hồ là 'đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công.'(33) Sau đây là các cách thức đoàn kết của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.

* Đoàn kết là tiêu diệt tất cả mọi người bất đồng chính kiến bằng bất cứ giá nào để giành quyền lực: Khoảng giữa tháng 11-1924, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Lý Thụy, đáp tàu từ Vladivostok (viễn đông Liên Xô) đi Quảng Châu (Trung Hoa) với vai trò thông ngôn của phái bộ cố vấn Borodin bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên trong thời kỳ liên minh quốc cộng đầu tiên ở Trung Hoa. Đến Quảng Châu, Lý Thụy bắt đầu gây dựng cơ sở đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam uy tín nhất ở Trung Hoa thời bấy giờ là Phan Bội Châu. Để giành lấy tổ chức của Phan Bội Châu, một trong những việc làm đầu tiên của Lý Thụy ở Quảng Châu là bán tin tức cho Pháp bắt Phan Bội Châu khi ông Phan đi từ Hàng Châu đến Thượng Hải ngày 1-7-1925.(34) Từ đó, những người hoạt động cách mạng ở Trung Hoa thiếu người lãnh đạo, dần dần ngả về theo nhóm cộng sản của Lý Thụy. Chẳng những chỉ một mình Phan Bội Châu, mà những cán bộ cách mạng nào không theo phe Lý Thụy, đều bị Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt trên đường về Việt Nam hoạt động.(35)

Trong cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, các đảng viên cộng sản áp dụng đúng sách vở của Lý Thụy, rải truyền đơn tố cáo Quốc Dân Đảng sẽ tấn công Bắc Kỳ để Pháp đề phòng và lùng bắt các đảng viên QDĐ. Nguyễn Thị Giang đã đưa các tờ truyền đơn nầy cho Nguyễn Thái Học xem, nhưng Nguyễn Thái Học vẫn không tin là những đảng phái cách mạng Việt Nam cùng chống Pháp lại có thể hại nhau như thế.(36)

Năm 1945, Nhật Bản thất trận và đầu hàng Đồng Minh. Tại hội nghị Potsdam (thị trấn ngoại ô Berlin), đại diện các nước Đồng Minh đưa ra tối hậu thư cho Nhật, trong đó quyết định về vấn đề Đông Dương như sau: quân đội Nhật sẽ bị giải giới do người Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) ở phía bắc vĩ tuyến 16, và do người Anh ở phía nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư không nói ai sẽ cầm quyền sau khi quân đội Nhật bị giải giới. Lợi dụng khoảng trống chính trị nầy, Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, gồm nòng cốt là đảng viên cộng sản, tổ chức cướp chính quyền. Việt Minh đã giết hại và thủ tiêu vô số người yêu nước không đi theo chủ trương đường lối của Việt Minh. Những tên tuổi lớn đều bị Việt Minh giết hại như Phạm Quỳnh (1945), Ngô Đình Khôi (1945), Tạ Thu Thâu (1945), Bùi Quang Chiêu (1945), Phan Văn Hùm (1945), Trương Tử Anh (1946), Huỳnh Phú Sổ (1947), Khái Hưng (1947)... Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Đảng, các nhà trí thức khác, bà hàng ngàn tín đồ đạo Cao Đài.(37) Việt Minh thủ tiêu tất cả những ai có thể tranh quyền với Việt Minh, từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng xã.

Như vậy, ý nghĩa thứ nhất về việc đoàn kết và liên hiệp đối với Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, là sự sáp nhập hay tiêu diệt tất cả các phe nhóm hay cá nhân đối lập với Cộng Sản bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ phương tiện gì, để chỉ còn lại những ai chịu 'đoàn kết' chấp nhận vâng phục cộng sản. Chỉ khi nào thất thế, gặp nhiều trở lực, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản mới sử dụng cách đoàn kết thứ nhì.

* Đoàn kết là tạm thời nhượng bộ, liên minh giai đoạn để vượt khó khăn: Cũng trong năm 1945, sau khi lập chính phủ đầu tiên ngày 2-9, gồm đại đa số đảng viên cộng sản, Hồ Chí Minh gặp nhiều trở ngại về phía người Pháp theo chân người Anh đến Đông Dương, và từ từ tiến ra Bắc; về phía người Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) đang từ biên giới tiến xuống Hà Nội theo thỏa ước Potsdam; và về phía những đảng phái cách mạng Việt Nam như Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách). Hồ Chí Minh đành phải nhượng bộ, tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 11-11-1945, thực chất là đảng Cộng Sản rút vào hoạt động bí mật.(38) Họ Hồ tổ chức tổng tuyển cử ngày 6-1, và thành lập chính phủ liên hiệp ngày 2-3-1946 gồm cả những lãnh tụ Việt Cách và Việt Quốc như Nguyễn Hải Thần, Trương Đình Tri, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng, Nghiêm Kế Tổ ... Ngay sau khi ký kết được với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3, tạm hòa hoãn với Pháp, và mua chuộc được các tướng lãnh Trung Hoa để họ rút quân về nước, nghĩa là vừa thoát qua được khó khăn, Hồ Chí Minh thẳng tay loại bỏ ngay các lãnh tụ không phải là Việt Minh ra khỏi chính phủ, khủng bố, giết hại nhân viên các đảng phái quốc gia, nuốt chửng những kẻ đã từng liên hiệp với họ.

Sách lược nầy được ứng dụng thêm một lần nữa với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập ngày 20-12-1960. Lúc đầu, mặt trận nầy gồm một số đảng viên cộng sản làm nòng cốt và một số người chống chế độ Ngô Đình Diệm. Sau đó, những người không thuộc đảng Cộng Sản bị loại dần cho đến khi mặt trận chỉ còn lại những người của Cộng Sản Đảng mà thôi.

Những người trước đây bất đồng chính kiến, nhưng khi gặp Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, chịu khuất phục và chịu đi theo họ Hồ thì được sử dụng trong những giai đoạn và hoàn cảnh cần thiết. Ví dụ Trần Huy Liệu (1901-1969), chủ bút Đông Pháp Thời Báo (1925-1927), chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Sài Gòn, bị Pháp bắt đày Côn Đảo trong năm năm. Mãn hạn tù, ông ra bắc năm 1935 và gia nhập đảng Cộng Sản năm 1936. Năm 1939, ông bị Pháp bắt trở lại, đày đi Sơn La, rồi an trí năm 1942 ở Thái Nguyên, và Yên Bái. Năm 1945, ông trốn về Hà Nội làm báo Cứu Quốc của Việt Minh trong vòng bí mật. Khi Việt Minh cướp chính quyền ngày 2-9, ông được Hồ Chí Minh giao làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền trong chính phủ Việt Minh đầu tiên. Ông được cử làm trưởng phái đoàn Việt Minh gồm cả Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (tức nhà thơ Huy Cận) vào Huế chứng kiến việc thoái vị của vua Bảo Đại tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945.

Hồ Chí Minh giao Trần Huy Liệu làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền không phải vì tín nhiệm Trần Huy Liệu mà vì họ Hồ cần uy tín chính trị của ông. Trần Huy Liệu vốn là chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt Quốc Dân Đảng tại Sài Gòn. Hồ Chí Minh sử dụng Trần Huy Liệu để tuyên truyền cho cái gọi là chính sách đoàn kết đảng phái của Việt Minh, nhắm lôi cuốn quần chúng theo họ, nhất là lôi cuốn các đảng viên Quốc Dân Đảng. Lúc bấy giờ do những hy sinh to lớn của Nguyễn Thái Học và các đồng chí, Quốc Dân Đảng rất có uy tín chính trị trên toàn quốc. Khi đã qua khỏi giai đoạn cần thiết, năm 1946, Hồ Chí Minh cử Trần Huy Liệu làm uỷ viên thường trực Quốc Hội. Cuối cùng, năm 1953, Trần Huy Liệu trở thành trưởng ban Nghiên cứu Sử Địa của nhà cầm quyền cộng sản, một chức vụ không có quyền hành.

Không chỉ riêng trường hợp Trần Huy Liệu, mà còn nhiều nhân vật tiếng tăm khác cũng rơi vào trường hợp ông, như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Nguyễn Phương Thảo (tức tướng Nguyễn Bình), Nguyễn Hữu Thọ... Như thế, ý nghĩa thứ nhì của việc đoàn kết với Hồ Chí Minh có nghĩa là quy thuận họ Hồ, theo đuôi đảng Cộng Sản và làm bù nhìn trong những thời điểm cần thiết cho họ Hồ hay nói cách khác là chỉ được họ Hồ liên minh giai đoạn. Thử kiểm điểm danh sách những lãnh tụ cộng sản từ trước đến nay, chỉ những người gia nhập đảng Cộng Sản ngay từ khi bước vào hoạt động chính trị, thuộc thành phần trung kiên mới nắm giữ thực quyền. Những người đã theo các đảng khác rồi sau đó gia nhập đảng Cộng Sản, hoặc những người ngoài đảng mà có công lao, chỉ giữ những chức vụ tượng trưng mà thôi, như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình ...

* Đoàn kết là sự vâng phục tuyệt đối lãnh đạo đảng: Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời tại Hà Nội. Trong di chúc, Hồ Chí Minh nhắn nhủ với các đảng viên đảng Cộng Sản: '...Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình...'(39) Vậy sự 'đoàn kết nhất trí' trong nội bộ đảng là gì?

Trong sinh hoạt đảng Cộng Sản Việt Nam, khi các cấp lãnh đạo đưa ra những vấn đề thảo luận, nếu một đảng viên trình bày những ý kiến cấp tiến mới mẻ, thì được lãnh đạo gọi là 'thành phần xét lại'. Ngược lại, có những đảng viên không muốn thực hiện các cuộc cải đổi quan trọng, thì được đánh giá là 'bảo thủ, trì trệ'. Nói một cách khác, bất cứ ai có ý kiến gì cũng đều bị chụp mũ là tả khuynh hoặc hữu khuynh, lệch lạc hoặc xét lại, trừ ý kiến của lãnh đạo đảng. Đảng viên chỉ còn một giải pháp duy nhất là gật đầu vâng lệnh thượng cấp.

Như vậy, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam là sự tuyệt đối vâng phục và trung thành của đảng viên đối với lãnh đạo đảng. Nếu không vâng phục lãnh đạo đảng, kết quả nhẹ nhất là sự trù dập, kỷ luật, và nặng nhất là thanh trừng.

Ở Việt Nam có một câu thành ngữ thời danh minh họa sự đoàn kết của Cộng Sản: 'Đảng gọi thì dạ; đảng không gọi thì không dạ. Đảng gọi mà không dạ không được; đảng không gọi mà dạ cũng không được.' Nói trắng ra, ý nghĩa thứ ba của sự đoàn kết theo quan điểm của đảng Cộng Sản có nghĩa là phải chịu sự lãnh đạo độc tài, độc đảng, và tuyệt đối vâng phục trung kiên với đảng Cộng Sản. Điều nầy đưa đến một kết quả tại hại là các đảng viên bị xơ cứng trí óc, sẽ không còn sáng kiến để làm việc.

Điểm đặc biệt là Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản chấp nhận một người trước đây chống đối họ, nhưng khi đã theo họ thì phải vâng phục tuyệt đối. Ngược lại, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản không bao giờ chấp nhận những người trước đây đã từng hoàn toàn phục tùng họ, mà sau đó lại có ý muốn cải cách theo chiều hướng nhân bản, dân chủ, tự do, dù vẫn tuân phục đảng và chủ nghĩa xã hội. Những người nầy cũng bị coi là kẻ thù và chắc chắn bị loại bỏ. Đó là trường hợp Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Trần Độ, Hà Sĩ Phu, Dương Thu Hương ..

Có lẽ cũng nên thêm một điểm nữa rất dễ thấy trong lịch sử, là đảng CSVN không bao giờ tôn trọng những hiệp ước quốc tế do họ ký kết. Hiệp ước là giải pháp thỏa thuận giữa các bên về một cuộc tranh chấp, cũng có nghĩa là một sự giải hòa giữa các bên, bước đầu để tiến dần dần đến sự đoàn kết thống nhất. Đối với đảng CSVN, ký kết hiệp ước chỉ là đánh lừa dư luận, tạm ngưng tranh chấp, nhắm dưỡng sức và củng cố nội bộ, để rồi tiếp tục bành trướng. Ví dụ rõ nét nhất là hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và hiệp định Paris ngày 27-1-1973. Đảng CSVN ký kết hai hiệp ước nầy với sự chứng kiến của các nước trên thế giới, mà họ còn trắng trợn vi phạm, xé bỏ hiệp ước, huống gì là sự cam kết giữa họ với những cá nhân hay những đoàn thể người Việt khác.

Do đó, hòa giải, liên hiệp và đoàn kết với cộng sản trước sau cũng sẽ bị cộng sản kiếm cách khống chế và hoàn toàn mất tự do. Những ai muốn hòa hợp, liên hiệp, đoàn kết với cộng sản, nên nhớ câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh với Daniel Guérin trong một lần gặp mặt ở Paris: '... Tất cả những ai không theo đường lối của tôi đều sẽ bị bẻ gãy...'(40)

* Đoàn kết là vắt chanh bỏ vỏ: Lúc Việt Minh cộng sản phát động chiến tranh chống Pháp, nhiều người yêu nước đã đứng lên hưởng ứng công cuộc kháng chiến. Chẳng những nhiều thanh niên lên đường theo tiếng gọi của quê hương, mà những người ở lại hậu phương cũng cố gắng đem tài vật ủng hộ công cuộc đấu tranh chống Pháp. Việt Minh đã xưng tụng những người nầy là những nhàø 'hằng tâm hằng sản'(có lòng và có của). Một khi tạm đứng vững, và nhất là khi được Trung Cộng viện trợ ào ạt từ năm 1951 trở đi, cộng sản Việt Nam mở cuộc cải cách ruộng đất từ 1953, và quay mặt với những kẻ đã nuôi dưỡng mình từ khi còn trứng nước, coi họ như kẻ thù, tố cáo những nông dân ' hằng tâm hằng sản' là địa chủ, đánh đập, hành hạ và giết họ mà không cho chôn xác. Một tác giả đã từng sống gần Hồ Chí Minh, kể lại rằng bà Nguyễn Thị Năm ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có nhà là nơi căn cứ giao liên, đã nuôi nhiều cán bộ cao cấp qua lại, từ Hồ Chí Minh, đến Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang); thế mà bà là một trong những người đầu tiên bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, và đặc biệt đã kêu cứu đến tận tai Hồ Chí Minh mà ông lờ đi, để cho người ta giết bà.(41)

Như vậy, với cộng sản, đoàn kết có nghĩa là lợi dụng một chiều theo giai đoạn, xong việc rồi 'vắt chanh bỏ vỏ'. Việc 'vắt chanh bỏ vỏ' được thấy rõ nhất trong việc Hồ Chí Minh đối xử với bà Nông Thị Xuân. Hồ Chí Minh sống với bà Xuân như vợ chồng, và có với bà nầy một đứa con trai. Khi đã chán bà Xuân, ông Hồ để cho viên bộ trưởng công an là Trần Quốc Hoàn tự do hiếp dâm bà Xuân, rồi giết vứt xác bà Xuân ngoài đường để ngụy tạo một tai nạn.(42) Đối xử với người đã từng sống với mình và có với mình một đứa con, mà còn tàn bạo như vậy, thử hỏi Hồ Chí Minh còn có thể nói là chuyện tình nghĩa đoàn kết với ai được? Từ vụ cải cách ruộng đất năm 1953 đến vụ án 'chống đảng' do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ khởi xướng ở Bắc Việt khoảng giữa thập niên 1960, vì muốn bảo vệ địa vị của riêng mình, Hồ Chí Minh đã im tiếng không can thiệp, để mặc cho các đồng chí thân thiết của ông ta bị thanh trừng, tù đày, hay tàn sát.(43) Chẳng những Hồ Chí Minh, mà Võ Nguyên Giáp cũng thế. Những tướng lãnh và sĩ quan thân cận của viên tướng nầy lần lượt bị thanh trừng mà ông ta không dám lên tiếng để bảo vệ sự thật. Như vậy, chẳng những trên phương diện chính trị đảng phái, mà cả trên phương diện cá nhân, đoàn kết với những người cộng sản chỉ có nghĩa là để cho họ lợi dụng xong rồi bị loại bỏ.

5.- HUYỀN THOẠI GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Trong Tự phán hay Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu cho biết rằng năm 1920 (canh thân), ông gặp hai nhân vật Liên Xô tại Bắc Kinh là Grigorij Voitinski và một viên tham tán tòa đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh. Khi Phan Bội Châu ngỏ ý muốn nhờ Liên Xô giúp đỡ đưa du học sinh Việt Nam sang Liên Xô du học, viên tham tán nầy chỉ vẽ cặn kẽ, và hứa rằng Liên Xô sẽ giúp đỡ tận tình với điều kiện là phải chấp nhận '...tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản, học thành rồi về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông ... ra sức làm những sự nghiệp cách mạng.' Viên tham tán nầy yêu cầu Phan Bội Châu dùng tiếng Anh viết sách kể hết chân tướng người Pháp. Có thể những đòi hỏi của người Liên Xô về 'tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản' làm Phan Bội Châu e ngại, nên ông tránh mặt, không gặp lại người Liên Xô. Phan Bội Châu giải thích rằng ông không viết được tiếng Anh, nên ông 'không lấy gì trả lại thịnh ý ấy'.(44) Đây là một lối nói xã giao, chứ thật ông Phan có thể vượt qua vấn đề ngôn ngữ bằng cách nhờ những người khác giúp làm thông ngôn, bằng chứng là Phan Bội Châu không biết tiếng Nhật, nhưng cũng đã nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu tiếp xúc với hai chính trị gia Nhật Bản là bá tước Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu) và tử tước Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Ki). Ngoài ra, giả dụ trong trường hợp Phan Bội Châu thật lòng muốn tiếp xúc, chắc chắn toà đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh có những thông ngôn Hoa ngữ, có thể viết bút đàm với Phan Bội Châu.

Ở đây cần chú ý một điểm là tại Nga, cuộc cách mạng cộng sản diễn ra vào ngày 7-11-1917.(45) Đảng Cộng Sản Liên Xô phải tốn một thời gian từ 1917 đến 1922 để tiêu diệt nhóm Bạch Nga bảo hoàng còn lại ở trong nước, ổn định tình hình nội bộ, nắm quyền thật vững chắc, mới bắt đầu bành trướng thế lực ra nước ngoài vào đầu đầu thập niên 20. Khi đó, Liên Xô phải đối đầu với các cường quốc Âu Mỹ đã tiến chiemn các thuộc địa từ thế kỷ 19. Do đó, nhu cầu vận động các nước thuộc địa nổi lên tranh đấu chống lại các cường quốc thực dân đang là kẻ thù của Liên Xô, nằm trong sách lược nầy. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc được cộng sản quốc tế sắp đặt cho qua Liên Xô để thụ huấn trở thành một thứ 'chiến sĩ tiên phong' trong việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản ở Á Châu, và cũng chính từ đó mà Nguyễn Ái Quốc đã hình thành quyển Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925.

Nếu viên đại diện Liên Xô tại Bắc Kinh yêu cầu Phan Bội Châu phải chấp nhận '...tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản, học thành rồi về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông ...' thì những người Việt khác theo Đệ tam Quốc tế Cộng sản, như Hồ Chí Minh, chắc chắn đều phải làm thế.

Điều đó có nghĩa là khi đến Liên Xô đầu năm 1924, Hồ Chí Minh, lúc đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, chắc chắn phải tuyên thệ thực hiện những điều nầy mới được Liên Xô chấp nhận, và cũng có nghĩa là ngay từ đầu, Hồ Chí Minh chịu làm tay sai cho Liên Xô, biến nước Việt Nam thành một nước cộng sản chư hầu của Liên Xô, và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cho Liên Xô, nghĩa là kiếm cách đánh phá những địch thủ của Liên Xôââ. Hồ Chí Minh và những người cộng sản che giấu rất kỹ điều nầy. Phải chăng do tâm lý ẩn ức vì cả cha lẫn con đều bị thất bại trên đường quan lại của Pháp, không xin được vào học trường Thuộc Địa Paris để ra làm quan cho Pháp, mà Hồ Chí Minh cam tâm làm như thế, để đạt cho được tham vọng quyền lực mà ông hằng khao khát?

Sau khi làm việc trong phái bộ Borodin tại Trung Hoa, Nguyễn Ái Quốc không được Đệ tam quốc tế tín nhiệm nên bị giữ lại ở Liên Xô một thời gian, từ 1933 đến 1938. Trước khi thế chiến thứ nhì bùng nổ (1939), tại viễn đông, Nhật Bản hoành hành mạnh, tranh giành những quyền lợi của Liên Xô ở Mãn Châu, và Triều Tiên, nhất là từ khi giới quân phiệt kiểm soát được chính quyền ở Nhật Bản, và thi hành chính sách bành trướng đế quốc.(46) Đệ tam quốc tế cộng sản liền sai Nguyễn Ái Quốc trở qua Trung Hoa vào đầu năm 1939 nhắm thực hiện những điệp vụ chống Nhật ở Á Châu. Để thấy rõ bản chất tay sai cộng sản quốc tế của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam, xin đọc đoạn sau đây của bộ sử do chính các tác giả cộng sản Hà Nội viết:

'Sau một thời gian nắm tình hình cách mạng Việt Nam và Đông Dương, ngày 10-5-1941, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Hồ Chủ tịch triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương lần thứ 8 ở Pắc Bó. Các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, cùng một số đại biểu của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài đã tham gia Hội nghị.

'Hội nghị phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, vạch rõ triển vọng của cuộc chiến tranh thế giới và khẳng định: Nếu sau Chiến tranh thế giới lần thứ I, xuất hiện nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên là Liên Xô, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần nầy sẽ làm cho cách mạng nhiều nước thành công, sẽ có thêm nhiều nước xã hội chủ nghĩa ra đời. Đảng nhấn mạnh phải xem cách mạng Việt Nam như một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, lúc nầy là một bộ phận của phong trào dân chủ chống phát xít, đặc biệt là phải tích cực ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc.'(47)

Gần đây, trong sách Viết cho mẹ & quốc hội, một đảng viên cao cấp của cộng sản, ông Nguyễn Văn Trấn tiết lộ rằng tên đảng Lao Động do chính Stalin đặt,(48) và cũng chính Stalin đã thúc đẩy Hồ Chí Minh thực hiện cuộc cải cách ruộng đất ngay từ cuộc gặp gỡ năm 1950.(49) Sau đó Mao Trạch Đông áp lực, huấn luyện cán bộ, và gởi chuyên viên sang tổ chức, theo dõi, thi hành cuộc cải cách ruộng đất.(50) Cuộc cải cách nầy phát khởi năm 1953 đã sát hại hàng trăm ngàn nông dân ở miền Bắc.

Vì đã mật kết đi theo con đường cộng sản Liên Xô, Hồ Chí Minh dùng chiêu bài giải phóng đất nước và độc lập dân tộc để dẫn cuộc chiến tranh chống Pháp thành cuộc chiến tranh giữa hai thế lực tư bản và cộng sản, lồng trong khung cảnh nội chiến giữa hai khuynh hướng quốc gia và cộng sản. Trong cuộc xâm lăng miền Nam từ năm 1960, Lê Duẩn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, đã từng nói: 'Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc...'(51)

Như vậy, trước sau như một, Hồ Chí Minh và đảng CSVN luôn luôn kiên định vai trò 'lính đánh thuê' cho Liên Xô và Trung Quốc bằng xương máu của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã dồn các thành phần quốc gia về phía phải kiếm cách liên kết với Pháp, và sau nầy với Hoa Kỳ, để chận đứng nạn cộng sản trên đất nước chúng ta, và để khỏi bị cộng sản Việt Nam tiêu diệt.

Với sự hỗ trợ tích cực của Liên Xô và Trung cộng, cuộc bành trướng của cộng sản tại Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn: (1)thiết lập các căn cứ tại Việt bắc từ đầu thập niên 40 và cướp chính quyền năm 1945; (2) dùng chiêu bài giải phóng và độc lập để kêu gọi dân chúng chống Pháp, và chiếm lĩnh một nửa đất nước, từ vĩ tuyến 17 trở ra bằng hiệp định Genève năm 1954; (3) Hồ Chí Minh và đảng CSVN tiếp tục mở cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam từ năm 1960 cho đến năm 1975.

Khi chưa chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổ chức cuộc cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách nầy được tiếp tục năm 1954 cho đến năm 1956, gây kinh hoàng cho nhân dân miền Bắc, giết chết hàng trăm ngàn người, và nhất làm làm tê liệt mọi sức đối kháng của người dân, làm hỏng hết các giềng mối luân lý đạo đức gia đình, con cái tố cha mẹ, vợ chồng tố nhau, anh em tố nhau, bà con không dám nhìn mặt nhau. Một sĩ quan cấp tiểu đoàn trưởng quân đội cộng sản Hà Nội tuyên bố: 'Ông ấy [chỉ Hồ Chí Minh] biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương.'(52)

Về phương diện văn hóa, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Cộng Sản dẹp bỏ hết các tôn giáo, tịch thu hết sách vở cũ, chỉ cho nhà trường dạy về chủ nghĩa cộng sản, lịch sử cộng sản, những nhà văn nhà thơ cộng sản. Đề thi văn chương ở đại học và trung học chỉ quanh quẩn những bài thơ của Hồ Chí Minh và Tố Hữu. Từ năm 1956 đến năm 1958, các văn nghệ sĩ không ca tụng chế độ cộng sản bị đem ra đấu tố và tù đày trong vụ án gọi là Nhân văn giai phẩm. Sau đó, các văn nghệ sĩ muốn sống còn phải im hơi lặng tiếng, viết theo chỉ thị của đảng. Cuộc đánh phá các văn nghệ sĩ nầy còn nhắm mục đích lâu dài là chận trước các tiếng nói đối lập để họ khỏi cản trở công cuộc xâm lăng miền Nam. Văn nghệ sĩ vốn là những người nhạy cảm trước nỗi đau khổ của đồng bào, nếu để họ tự do ngôn luận, thì khó có thể thi hành kế hoặch xâm lăng mà không bị họ phát hiện hoặc phản đối.

Về phương diện kinh tế, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản gọi là giải phóng, nhưng đã loại bỏ nền kinh tế tự do, để trói buộc dân Việt vào chính sách kinh tế chỉ huy theo kiểu Liên Xô và Trung Cộng, tịch thu hết đất đai, dồn nông dân vào các hợp tác xã nhà nước, quốc hữu hóa các công ty xí nghiệp của tư nhân. Vì người dân không được quyền sáng kiến làm ăn sinh sống, không được tự do kinh doanh, nên nền kinh tế Bắc Việt hoàn toàn suy sụp và kiệt quệ dưới chế độ cộng sản của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh phải nhờ đến viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng. Người ta kể rằng một cây kim may cũng phải nhờ Trung Cộng viện trợ. Càng nhờ vả thì càng mất tự do, và phải trả bằng nguyên vật liệu như than đá, quặng sắt ... mà cho đến nay vẫn còn chưa trả hết.

Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản tiếp tục áp dụng chiêu bài giải phóng dân tộc với miền Nam sau năm 1954. Năm 1972, người Hoa Kỳ bắt tay được với Trung Cộng, thay đổi chiến lược chính trị ở Á Châu, tìm cách rút quân ra khỏi Việt Nam. Hiệp định Paris năm 1973 đã đưa Việt Nam Cộng Hòa vào tư thế lúng túng. Cộng sản Bắc Việt, với sự hậu thuẫn hùng hậu của Liên Xô và Trung Cộng, tiến chiếm miền Nam năm 1975.

Những chính sách áp dụng ở miền Bắc năm 1954 lại được đem ra áp dụng ở miền Nam. Về tôn giáo, văn hóa, chính trị, cộng sản buộc miền Nam đi vào quỹ đạo cộng sản. Về kinh tế, lần nầy cộng sản trúng vố bở vì từ năm 1954 đến năm 1975, miền Nam càng ngày càng phồn thịnh, dân chúng giàu có. Cộng Sản lấy được 16 tấn vàng của kho bạc miền Nam, tịch biên tất cả những nhà tư sản mà Hà Nội gọi là 'mại bản',(53) đổi tiền nhiều lần để kiểm soát tình hình lưu thông tiền tệ, quốc doanh tất cả công ty xí nghiệp... Miền Nam là vựa thóc của đất nước, nhưng dưới chính sách kinh tế chỉ huy của cộng sản, dân chúng miền Nam đói rách nghèo khổ cùng cực hơn bao giờ cả.

Trong bản tuyên bố ngày 2-9-1945 mà cộng sản gọi là bản tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh viết: 'Chúng [chỉ thực dân Pháp] lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân...Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến do dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn...'(54)

Nay chúng ta ứng dụng những lời do chính tay Hồ Chí Minh viết, và từ miệng Hồ Chí Minh đọc, vào chính sách của chế độ cộng sản ở Việt Nam, như nhà tù nhiều hơn trường học, như quốc hữu hóa đất đai, công ty xí nghiệp, đánh tư sản ... thì nghiệm ra rằng 'chúng' là cộng sản chứ chẳng ai khác.(55)

Do những thay đổi ở Trung Cộng khi Đặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền năm 1978 sau khi Mao Trạch Đông từ trần (1976), do chủ trương Glasnost (Cởi mở) và Perestroika (Tái cấu trúc) của Gorbachev khi ông lên làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1985, do những biến động ở Đông Âu năm 1989, sự sụp đổ của đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1991, và nhất là do cuộc cách mạng thông tin liên lạc bằng hệ thống vi tính và mạng lưới viễn thông quốc tế, đảng Cộng Sản Việt Nam không còn bưng bít và gò ép được dân chúng nữa, nên bắt buộc đảng Cộng Sản phải thay đổi về kinh tế, nhưng vẫn độc tôn về chính trị. Khẩu hiệu 'Chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc' trước đây trong thời chiến tranh, nay trở thành khôi hài với dân chúng và mỉa mai đối với những người đã chết trong cuộc chiến vì khẩu hiệu nầy, khi nhà cầm quyền Hà Nội tha thiết mong mỏi Hoa Kỳ trở lại Việt Nam vào giữa thập niên 90.

Theo nghĩa tầm nguyên, giải phóng là cởi mở ra cho tự do, nghĩa là đưa một cái gì từ tình trạng bị giam hãm kềm kẹp đến tình trạng được thoát ly và tự do, tức từ chỗ xấu đến tốt hơn. Đàng nầy, với đảng CSVN, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước có nghĩa là biến Việt Nam thành chư hầu của Liên Xô, Trung Quốc, nô lệ hóa dân chúng Việt Nam theo tín điều cộng sản, đặt nhân dân Việt Nam dưới chế độ độc tài, độc đảng, bóc lột, phá hoại, đầy ải và bần cùng hóa nhân dân một cách có hệ thống, có bài bản của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam.

Trong lịch sử Việt Nam, khác với những cuộc chiến tranh giải phóng trước đây, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản là trường hợp đầu tiên và duy nhất đã lợi dụng tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, khát vọng độc lập tự do của nhân dân, đưa ra chiêu bài giải phóng đất nước, kêu gọi dân chúng theo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 'đế quốc' Mỹ, để áp đặt một chế độ độc tài bóc lột khắc nghiệt hơn cả ngoại bang thực dân. Lợi dụng khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt Nam để tước đoạt tự do của người Việt Nam, sử dụng xương máu của giống nòi để phục vụ quyền lợi đảng phái riêng tư và quyền lợi của quốc tế cộng sản, là một tội lỗi lịch sử ngàn năm bia miệng .

6.- HUYỀN THOẠI 'TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH'
Sau năm 1975, Việt Nam suy sụp dần dần với chính sách kinh tế chỉ huy và sự cai trị hà khắc của chế độ cộng sản. Cao điểm của sự suy sụp là việc ông Đỗ Mười, uỷ viên bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam, chỉ huy cuộc cải tạo công thương nghiệp miền Nam, thực chất là đánh 'tư sản' năm 1978, ngăn sông cách chợ, cấm cản tiểu thương, đày ải dân thành thị đến các vùng hoang địa, cưỡng bách lao động trong những công tác thủy lợi thiếu nghiên cứu, tung quân xâm lăng Campuchia, chỉ để tránh sức mạnh của người dân trong nước. Dân chúng đói khổ ta thán, tinh thần cán bộ đảng viên sa sút theo.

Để kiếm cách tuyên truyền cổ võ dân chúng hưng phấn trở lại, nhà nước cộng sản Hà Nội đánh bóng hình tượng Hồ Chí Minh, đã chết từ năm 1969 trước khi miền Nam bị cưỡng chiếm. Họ tổ chức cuộc 'rước đuốc bác Hồ' xuyên Việt, từ lăng mộ Hồ Chí Minh ở Hà Nội lên các tỉnh miền núi Bắc Việt, và quan trọng nhất là từ Hà Nội tiến xuống các tỉnh phía Nam vào khoảng tháng 10-1980, giống như kiểu rước đuốc của nhà độc tài Hitler năm 1933 ở Nuremberg (Đức).

Ánh đuốc bập bùng lung linh gây không khí huyền hoặc theo nghi lễ cổ xưa cũng không làm tan đi băng giá lạnh lùng trong tâm hồn dân chúng Việt Nam đã triền miên khổ đau vì nạn độc tài cộng sản. Càng về nam, dân chúng càng ít hưởng ứng, nên sau chặng đường từ Tuy Hòa vào Nha Trang thì cuộc rước đuốc tan rã. Dân chúng cần cái ăn cái mặc, chứ không phải là những lời nói suông. Vì không xuống quá Nha Trang, do đó ở Sài Gòn và trong nam, dân chúng ít nghe biết chuyện rước đuốc nầy.

Năm 1989, Đông Âu bắt đầu biến động và thoát khỏi đế quốc Liên Xô. Sau đó đến lượt Liên Xô, chiếc nôi của Cộng Sản Quốc Tế, sụp đổ năm 1991. Khẩu hiệu chiến lược hàng đầu mà đảng Cộng Sản Việt Nam thường sử dụng: 'Chủ nghĩa Mác - Lê bách chiến bách thắng' không còn hiệu nghiệm. Đảng CSVN lâm vào tình trạng lúng túng, không biết làm sao tiếp tục tuyên truyền với đảng viên và dân chúng, vì nói rằng chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng, nay sao lại sụp đổ tan tành chóng vánh ngay tại quê hương của Lenin? Đảng CSVN vội quay qua cầu cứu Hồ Chí Minh lần nữa, đưa thêm 'tư tưởng Hồ Chí Minh' tiếp theo sau chủ nghĩa Mác Lê, nghĩa là từ nay nền tảng của ý thức hệ cộng sản Hà Nội là chủ nghĩa Mác xít - Lê nin nít và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó mới xuất hiện chuyện 'tư tưởng Hồ Chí Minh'. Điều 4 chương 1 hiến pháp năm 1992 của cộng sản Hà Nội chính thức công khai việc nầy.(56)

Tưởng cũng nên thêm ở đây, khi Liên Xô sụp đổ, ở Hà Nội việc duy trì xác ướp Hồ Chí Minh gặp khó khăn cả về kỹ thuật lẫn tài chánh. Người ta đã nghĩ đến việc thiêu xác ông ta. Việc nầy đã được báo chí và đài phát thanh nói đến, nhưng do nhu cầu chính trị cần nêu cao 'tư tưởng Hồ Chí Minh', nên Hồ Chí Minh vẫn còn được nằm trong ngôi mộ đồ sộ ở Hà Nội với sự cố vấn của các chuyên gia Nga.

Hồ Chí Minh từ trần ngày 2-9-1969, nhưng Lê Duẩn và bộ chính trị đảng CSVN sợ xui xẻo vì trùng với ngày quốc khánh của Hà Nội, đã sửa đổi ngày chết là 3-9, và sửa đổi luôn cả chúc thư của Hồ Chí Minh.(57) Đồng thời đảng CSVN xây dựng nấm mồ Hồ Chí Minh thật đồ sộ, tốn kém, gọi là lăng theo từ ngữ vua chúa thời quân chủ, nhắm lợi dụng huyền thoại và nấm mồ bề thế Hồ Chí Minh để uy hiếp tinh thần dân chúng, và tạo hào quang cho những kẻ kế thừa.(58)

'Tư tưởng Hồ Chí Minh' là gì? Không thấy đảng Cộng Sản Việt Nam trình bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đại hội tháng 2 năm 1951, Hồ Chi Minh phát biểu: 'Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin...lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.'. Khi đó, đại biểu miền Nam là Nguyễn Văn Trấn đã trình bày với Hồ Chí Minh rằng: ' Có đồng chí còn nói: hay là ta viết 'tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh'. Ông Hồ trả lời:'Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin.'(59) Một lần khác, có người đã hỏi Hồ Chí Minh vì sao ông không viết sách về lý thuyết cộng sản, thì ông trả lời ông không cần viết, vì đã có Mao Trạch Đông viết rồi.(60) Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì, nên những kẻ thừa kế tha hồ vẽ vời sáng tác mọi chính sách và gắn cho nhãn hiệu Hồ Chí Minh.

Theo dõi những bài diễn văn, những khẩu hiệu do ông Hồ đưa ra, mọi người đều nhận biết rõ ràng tất cả đều do ông Hồ cóp nhặt từ các nhà tư tưởng văn hóa và chính trị đông tây. Ví dụ bài diễn văn khai sinh chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ đọc ngày 2-9-1945, thường được đảng Cộng Sản gọi là bản 'Tuyên ngôn độc lập', hoàn toàn vay mượn của các văn bản Pháp và Mỹ.(61) Mọi người sẽ không lấy làm lạ nếu biết rằng người giúp ông Hồ viết bản văn nầy là một thiếu tá người Hoa Kỳ, Archimedes L. A. Patti.(62)

Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng hơn 3.000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc (dạy từ lớp 6 đến lớp 12 trung học), do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh viết: 'Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người '. (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958) Câu khẩu hiệu nầy được sách vở Cộng Sản xem là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, thật ra là câu nói của Quản Trọng các đây hơn hai ngàn năm.(63)

Một trong những khẩu hiệu hàng đầu được xem là tư tưởng Hồ Chí Minh để huấn luyện và giáo dục cán bộ cộng sản là 'Chí công vô tư, cầm kiệm liêm chính', thật ra rút từ lời dạy của Nho giáo cũng đã trên 2.000 năm. Với các phạm trù nầy, Nho giáo đã đào tạo không biết bao nhiêu thế hệ quan lại thanh liêm trước đây phục vụ quần chúng. Ngược lại, lời sao chép của Hồ Chí Minh chỉ là cái vỏ bọc che đậy một hệ thống cầm quyền tham ô nhũng lạm từ trên xuống dưới, mà bất cứ người nào ở trong cũng như ngoài nước, kể cả người ngoại quốc đều biết.

Còn việc Hồ Chí Minh bảo rằng 'Không có gì quý hơn độc lập tự do', thì mọi người đều đã biết, chính nhờ lợi dụng tinh thần độc lập dân tộc và lòng yêu thích tự do của dân chúng mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã đưa dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ cộng sản Nga Hoa.

Nêu lên vài ví dụ trên đây để thấy rằng những điều gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ là sự cóp nhặt danh ngôn của những vĩ nhân thế giới, rồi đề tên họ Hồ vào. Sở dĩ ông Hồ và các thuộc hạ của ông mạnh dạn mượn tư tưởng của người khác làm của riêng ông Hồ, vì từ năm 1954 đến 1975, Bắc Việt sống hoàn toàn bưng bít, không có bất cứ một sách vở xưa cũ hay một phương tiện truyền thông nào đến với dân chúng, ngoài sách đảng, báo đảng, và đài phát thanh đảng. Trong tình hình đó, Hồ Chí Minh muốn cóp nhặt của ai thì tha hồ mà cóp nhặt, không ai biết gì để có thể so sánh. Rủi ro có người nào phát hiện, người đó cũng không dám lên tiếng dưới chế độ độc tài của ông. Ngay cái tên 'Nguyễn Ái Quốc', ông Hồ mượn của Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền;(64) và cái tên 'Hồ Chí Minh' ông Hồ mượn của Hồ Học Lãm.(65) Chẳng những lấy tên 'Hồ Chí Minh' của Hồ Học Lãm, năm 1940, Nguyễn Ái Quốc còn chiếm dụng luôn danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh do Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần lập ra ở Nam Kinh (Trung Hoa) vào năm 1936 để đánh lừa những người yêu nước Việt Nam và cả chính quyền Trung Hoa để được giúp đỡ.

Theo tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, Bản án chế độ thực dân Pháp do Nguyễn Ái Quốc đưa ra năm 1922, do chính ông khởi viết từ 1921.(66) Thật ra, Nguyễn Ái Quốc không viết được sách nầy, vì lúc đó ông ta không đủ trình độ Pháp văn để viết sách,(67) và ông ta đã cóp nội dung bài 'Đông Dương chính trị luận' của Phan Chu Trinh (đã được Jules Roux, bạn của Phan Chu Trinh, dịch ra tiếng Pháp để gởi cho chính phủ Pháp và Albert Sarraut sắp qua làm toàn quyền Đông Dương). 'Bài nầy Quốc chỉ sửa chút ít, viết lại đề tựa khác 'Bản án chế độ thực dân Pháp', nhờ luật sư Phan Văn Trường sửa chữa, viết lại nhiều trang, viết lời tựa trước khi in và phổ biến.'(68)

Chẳng những ông Hồ 'mượn' tư tưởng vĩ nhân thế giới làm tư tưởng của mình, cóp sách của người khác rồi sửa chửa làm sách của mình, ông ta còn mượn luôn thơ của người khác để làm thơ mình. Tác phẩm được coi là nổi tiếng của họ Hồ là Ngục trung nhật ký [Nhật ký trong tù]. Nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục đã phân tách tỉ mỉ tác phẩm nầy và đi đến kết luận như sau: 'Phần phân tích ở trên chứng thực già Lý là chủ nhân của những bài thơ xây dựng theo kĩ thuật thơ Đường; những bài thơ nầy chiếm hết ba phần tư tác phẩm. Phần còn lại có thể coi là của Hồ Chí Minh. Tôi chỉ nói là có thể vì tôi không khẳng định được rõ ràng bài thơ nào đích thực là của Hồ Chí Minh, bài thơ nào thuộc về các tác giả khác.'(69) Từ phát hiện của nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục, có lẽ cũng cần nên cẩn án lại cẩn thận những tác phẩm mang tên Hồ Chí Minh có phải thực sự là của ông ta không?(70)

Không biết ông Hồ đã tự cóp nhặt hoặc đạo văn, hay những thuộc hạ của ông muốn tâng bốc ông Hồ, đã cóp nhặt và đạo văn giúp cho ông Hồ. Nếu như thế thì họ đã hại hình tượng Hồ Chí Minh của họ. Tai hại một cách công khai nhất là bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam đã thêm phần 'tư tưởng Hồ Chí Minh' sau chủ nghĩa Mác-Lê. Hồ Chí Minh không bao giờ là một nhà tư tưởng, cũng không phải là một lý thuyết gia chính trị. Trong sách Ho Chi Minh, Jean Lacouture đã ít nhất hai lần nói rằng ông Hồ không phải là một lý thuyết gia, dù lúc viết sách nầy Lacouture là một ký giả còn thiên tả.(71) Mọi người đều đã từng nghe nói đến Marxism (Mác-xít), Leninism (Lênin-nít), Stalinism (Xìtalin-nít), Titoism (Titô-ít), Maoism (Mao-ít), nhưng không bao giờ nghe nói đến 'Hoism' (Hồ-ít).(72) Ông Hồ thật sự chỉ là một nhà chính trị giỏi thực hành, một chiến thuật gia (tactician), ứng biến mau lẹ, có tài đóng kịch, đặc biệt rất sắc máu và tàn ác dị thường.(73) Việc bộ chính trị đảng CSVN đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, công khai đưa vào hiến pháp, làm cho người ta càng thêm chú ý, và càng để lộ trước mặt mọi người rằng ông Hồ chẳng có tư tưởng nào đặc sắc.(74)

Sau sự sụp đổ của các đảng cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu, bộ chính trị đảng CSVN tưởng rằng thổi phồng huyền thoại 'tư tưởng Hồ Chí Minh' nhắm gây hưng phấn dân chúng. Thực chất việc trên đã làm cho chủ nghĩa nầy càng thêm mất ý nghĩa và không quyến rũ được ai. Ngày nay, chủ nghĩa Mác-Lê, và hình tượng Hồ Chí Minh chỉ còn là chiếc phao để đảng Cộng Sản duy trì quyền lực độc đảng độc tài dựa trên bạo lực mà thôi. Trong khi đó, dư luận trong nước cũng như trên thế giới đều lên tiếng hô hào loại bỏ điều 4 hiến pháp 1992, nghĩa là chẳng những loại bỏ đặc quyền tối thượng của đảng CSVN, mà còn loại bỏ luôn chủ thuyết Mac xít - Lê nin nít và cái gọi là 'tư tưởng Hồ Chí Minh'.

Tóm lại, những huyền thoại về Hồ Chí Minh do ông tự tạo ra, hay do các thuộc hạ của ông dựng nên, đều là những phấn son giả tạo tô điểm hình tượng Hồ Chí Minh.(75) Những huyền thoại nầy một thời đã đánh lừa được một số người Việt Nam và thế giới. Gần đây, trong một cuộc phỏng vấn, sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), tác giả sách Livre Noir du Communisme [Sách đen chủ nghĩa cộng sản], đã nói: 'Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản.' (76)

Dần dần, dòng sông thời gian đã rửa sạch lớp phấn son giả tạo, làm bay đi những huyền thoại, để lộ ra khuôn mặt thật của Hồ Chí Minh. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng Hồ Chí Minh là một nhân vật lớn của lịch sử hiện đại Việt Nam. Ông đã lập nhiều thành tích đáng kể và đáng nể. Những thành tích nầy tốt hay xấu, có lợi hay có hại cho nhân dân Việt Nam, đó là sự phán xét của nhân dân.(77) Lột trần những huyền thoại Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết để trả lại cho Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, những gì thật sự là của Nguyễn Sinh Cung. 


Vũ Thư Hiên là con ông Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh trong nhiều năm. Hồ Chí Minh vẫn coi gia đình ông Huỳnh không chỉ như những đồng chí đáng tin cậy mà còn như thành viên trong gia đình, dù chưa bao giờ ông có một mái ấm gia đình. Vì thế ngay từ khi còn nhỏ, Vũ Thư Hiên đã có nhiều dịp gặp mặt chuyện trò với Hồ Chí Minh, thậm chí nằm chung giường. (1)

Trong tác phẩm Đêm giữa ban ngày (2) với dòng ghi chú hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, tác giả đã đưa ra nhận định về hàng trăm nhân vật chính trị cũng như nhà văn, nhà báo, bạn bè và các đồng chí của cha ông, trong số có Hồ Chí Minh mà tác giả nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần, khi khen, khi chê dựa trên những sự việc cụ thể từng chứng kiến.
Tuy nêu ra nhiều sự kiện thực tế, tác giả cũng không có vẻ biết về Hồ Chí Minh hơn những tác giả khác, mặc dù có dịp gần gụi ngay từ khi còn bé và khi ở trong tù Cộng Sản hơn 9 năm, đã có thì giờ “rà soát lại” (chữ của tác giả) tất cả những gì được biết về Hồ Chí Minh, kể cả về cảm tình từng dành cho nhân vật này.
Lần đầu nhắc đến Hồ Chí Minh, tác giả không đưa ra nhận xét của mình mà chỉ nhắc lại ý kiến của mẹ, một đồng chí trung kiên từng săn sóc Hồ Chí Minh ngay tại nhà bà trong lúc ông ta đau ốm. Khi chồng và con bị bắt, bà được nhiều bạn bè khuyên “cầu cứu ông Hồ”. Họ nghĩ Hồ Chí Minh không biết vì “không còn trực tiếp điều khiển công việc đất nước.Mẹ tôi không tin. Bà cho rằng...ông Hồ không thể không biết. Vụ bắt bớ chỉ có thể được tiến hành khi có sự đồng ý của chủ tịch nước.”
Rồi tác giả trưng những bằng cớ mà bà mẹ đã nêu ra khiến “bà không xin gặp, không viết một dòng chữ nào cho ông Hồ Chí Minh” (3)

Tác giả cũng nêu nhận xét của mẹ về chế độ của Hồ Chí Minh kèm theo nhiều bằng chứng cụ thể: “Mẹ tôi nhận xét: “Mật thám Pháp đối với kẻ thù lịch sự và tử tế hơn công an ta đối với dân” (4)

Về việc Cộng Sản bắt giam người, tác giả dẫn lời một bạn tù tên Thành:“Khi bắt người, việc trước tiên phải làm là bắt hắn nhận tội cái đã… tôi biết có người hoàn toàn vô tội, ở tù sơ sơ cũng vài năm, thế mà ra tù… còn nói đảng bắt anh ta là đúng ... và nhờ đảng khoan hồng mới được tha ... là vì anh ta đã nhận tội rồi ...” Rồi người bạn tù kết luận trong tiếng thở dài: “Trong xã hội chúng ta, ông ạ, mỗi công dân là một người tù dự khuyết.” (5)

Tiếp tục không nêu ý kiến riêng, tác giả thuật lại nhận định của cha khi đề cập tới trách nhiệm của Hồ Chí Minh đối với những tội ác do chính sách cải cách ruộng đất.
Tác giả viết: “Cha tôi khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh chứ không phải Trường Chinh. Trường Chinh  là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ…Bên cạnh ngôi sao sáng Hồ Chí Minh, tổng bí thư Trường Chinh không có vai trò lớn như nhiều người lầm tưởng. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không bao giờ dám, và cũng không bao giờ được phép tự mình quyết định những việc lớn.”
Nhưng theo tác giả, Hồ Chí Minh không thể cưỡng lại áp lực của Trung Cộng và việc ban hành chính sách Cải Cách Ruộng Đất là do bị Mao Trạch Đông chi phối: “Ông đã buộc phải làm cải cách ruộng đất khi bị Mao nhắc nhở.” (6)
Dù vậy, tác giả khẳng định ý kiến của mình: “Câu chuyện ông Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương cải cách ruộng đất, bực bội vì nó mở màn bằng việc bắn một người đàn bà như một số người muốn bào chữa cho ông là chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không chỉ cứu  một bà Nguyễn Thị Năm, nó còn cứu hàng ngàn người bị giết oan trong cả Cải Cách Ruộng Đất lẫn Chỉnh Đốn Tổ Chức do Lê Văn Lương song song tiến hành.” (7)  Nhưng Hồ Chí Minh đã im lặng!

Tác giả thuật lại những điều rùng rợn mà tác giả mắt thấy tai nghe trong Cải Cách Ruộng Đất  khiến…“tôi cảm thấy trong mình cục cựa một cái gì giống như sự thức tỉnh.” Đó là những màn đấu tố với đủ mọi cực hình man rợ trút xuống thân xác nạn nhân, thậm chí đem nạn nhân ra thiêu sống: “...Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa ... người đàn bà quằn quại mãi, tới khi ngất đi rồi mới được người ta hạ xuống.
… Cha bạn tôi bị vu khống là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, thắt cổ tự tử...
… Người ta lấy gai bưởi cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có thể chỉ là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại nhấn những gai nhọn sâu thêm một chút làm cho cô ta rú lên...
…Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng dây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó....”
Một thực tế khác cũng khiến tác giả băn khoăn là sự hiện diện của quân đội Trung Cộng. Sau khi nhắc lại tiết lộ của Hoàng Văn Hoan về việc Hồ Chí Minh yêu cầu Trung Cộng phái sang Việt Nam hơn 300 ngàn quân (8), tác giả kể chính tác giả có lần đi công tác tại khu tự trị Việt Bắc đã chứng kiến những người dân đi kiếm củi và thợ mỏ bị lính Trung Cộng đuổi khi lai vãng đến gần vị trí đóng quân của họ.
Cha của tác giả đã “rơm rớm nước mắt” khi nghe tác giả thuật lại vào lúc trở về nhà. Cha tác giả cũng “rất bất bình về việc Nguyễn Chí Thanh, người nắm thực quyền trong quân đội thời ấy đã đặt Cục Đồ Bản của Trung Quốc in bản đồ 1/1000 là thứ bản đồ dùng cho pháo binh – Đó là bí mật quốc gia, không một nước nào tự nguyện trao cho nước khác. Sao nó ngu thế! Sao nó bậy thế!” (9)

Nơi trang 342, Vũ Thư Hiên cũng kể Nguyễn Lương Bằng từng là phó chủ tịch nước, rất thân cận với Hồ Chí Minh, và là tay chuyên kinh tài cho đảng, đã đứng đầu tổ chức buôn lậu rất lớn có cái tên Công Ty Bắc Thắng ở Tuyên Quang: “Bề ngoài Công Ty Bắc Thắng chuyên sản xuất lương khô... Bề trong... công ty mua gom thuốc phiện ở các vùng tây bắc Việt Bắc, rồi bán qua Thái Lan lấy tiền mua súng đạn... Lao vào hoạt động kinh tế, Nguyễn Lương Bằng chìm đắm trong đó, chẳng được biết đến, không có tên tuổi trong nhân dân xứng với vị trí và uy tín của ông với tư cách là một nhà lãnh đạo. Nhưng người Pháp không quên ông. Mùa hè năm 1947 địch lần ra dấu vết những hoạt động của Nguyễn Lương Bằng. Bốn máy bay Spitfire quần đảo bên trên kho thuốc phiện của ông ở cây số 7 đường Tuyên-Hà, bắn đui-xết (12,7 ly) không ngừng cho tới khi cái kho cháy rụi. Vụ thiệt hại rất lớn – hơn 4 tấn thuốc phiện biến thành khói. Ông gầy rọc đi sau trận oanh kích bất ngờ. Hôm đó tôi ở gần cái kho bị cháy....”

4 tấn thuộc phiện không phải số lượng nhỏ và buôn lậu ma túy là một tội ác của các tổ chức đen mafia. Nhưng đó lại là chủ trương của đảng Cộng Sản, được giao cho một người thân tín nhất của Hồ Chí Minh lúc ấy!
So sánh phương pháp cai trị của Cộng Sản với thực dân, Vũ Thư Hiên cho rằng Cộng Sản “tinh tế hơn những ông chủ cũ.” Tác giả viết: “Mọi sự bóc lột đè nén giờ đây được tiến hành trong tiếng kèn hoan hỉ ngợi ca cuộc đời mới, trong cờ xí rợp trời, trong ánh lấp lánh của vàng mạ phủ lên mọi tối tăm, tủi nhục, tiếng rìu đao phủ chìm nghỉm trong khúc quân hành, và đám đông bị mê mẩn bởi những lời cổ vũ hùng hồn rầm rập kéo nhau đi tới miền đất hứa ở tít mù tầm mắt không nhận thấy máu đồng bào nhơm nhớp dưới chân mình.…Tôi đã đi trong đám đông bị thôi miên, trong cuộc lên đồng vĩ đại.” (10)

Tác giả tự chê mình chậm hiểu, “ngu lâu” vì đã kéo quá dài thời gian bị thôi miên, mặc dù đã được nghe nhiều lời cảnh báo từ người bạn thân là tiểu đoàn trưởng Đích, từ vợ tác giả và đặc biệt là từ người cô ruột từng có kinh nghiệm xương máu với Cộng Sản đã nhắc tác giả từ thuở thiếu thời: “Cháu phải tỉnh trí, chớ có nghe Cộng Sản. Cộng Sản bất nhân lắm. Mình là người tử tế phải biết chọn bạn mà chơi. Nghe ngon ngọt lắm vào rồi đi theo họ, hối không kịp.”
Tác giả bảo người cô này được cả họ tin phục nhưng tác giả không nghe theo cảnh báo của bà cũng như đã gạt ngoài tai lời của tiểu đoàn trưởng Đích gọi Hồ Chí Minh là quỷ vương.
Là người có dịp kề cận Hồ Chí Minh nên tác giả nhận rõ Hồ Chí Minh thường gọi tất cả kẻ thù là thằng và xác định: “Chính ông Hồ Chí Minh dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những bài viết trên báo Cứu Quốc: Thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Sihanouk, thằng Lý Quang Diệu, thằng Măng-Đét-Phrăng...”

Đề cập tới việc này, tác giả mỉa mai giới trí thức Việt Nam: “Không ở đâu trong các nước xã hội chủ nghĩa có được một tầng lớp trí thức NGOAN như thế!” (11)
Tác giả thuật lại với nhiều chi tiết vụ Dương Bạch Mai bị đầu độc, chỉ vì sắp sửa đọc (trong ít phút sau đó) một diễn văn nảy lửa phê bình đảng. Dương Bạch Mai lúc đó là ủy viên trung ương đảng, phó chủ tịch quốc hội, nhưng từng bị coi là thuộc nhóm Tờ-rốt-kít mà Hồ Chí Minh đã kết án: “Đối với bọn Tờ-rốt-kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả...”
Tuy không khẳng định đây là một vụ thủ tiêu theo lệnh trên nhưng cách trình bày của tác giả ngầm diễn tả ý đó. Tác giả cũng kết tội Hồ Chí Minh đạo văn: “Nếu hai tác phẩm của Trường Chinh là đạo văn thì cuốn Sửa đổi lề lối làm việc (12) cũng là đạo văn nốt. Nó là bản diễn nôm cuốnChỉnh đốn văn phong của Mao cộng một chút Sự tu dưỡng của người đảng viên Cộng Sản của Lưu Thiếu Kỳ. (13)

Dù nhìn Hồ Chí Minh như vậy, tác giả vẫn tỏ ra thán phục Hồ Chí Minh về việc ký bản Hiệp Ước Sơ Bộ 6-3-1946:
“…Trong hoàn cảnh ấy Hồ Chí Minh đã đi một nước cờ táo bạo – ký hiệp định 6-3-46, thỏa thuận cho các lực lượng Pháp vào thay thế các lực lượng Đồng Minh. Cần phải thoát khỏi ngay lập tức đám ma đói từ bên Tàu, lực lượng thổ phỉ này bất cứ lúc nào cũng có thể biến thành một trận hồng thủy từ phương Bắc tràn xuống. Lấy bọn xâm lược rành rành đẩy bọn xâm lược giấu mặt ra ngoài, tranh thủ thời gian để bước vào cuộc kháng chiến không thể tránh né.” (14)

Về việc này, tác giả không nhìn theo mục đích loại trừ các lực lượng chống Cộng mà chính Thường Vụ Trung Ương Đảng đã xác nhận vào thời gian đó qua nghị quyết ngày 9-3-1946 và xác nhận cả thế liên minh với Pháp vì Pháp đang cần tiêu diệt các lực lượng quốc gia yêu nước hơn là đối phó với Việt Minh.
Tuy nhiên, Vũ Thư Hiên vẫn thấy rõ cách đẩy người vào chỗ chết của Hồ Chí Minh qua trường hợp tướng Lê Liêm.
Lê Liêm trình với Hồ Chí Minh về tư tưởng chống Mao của mình và được Hồ Chí Minh khuyến khích “ra hội nghị chú cứ nói. Tôi ủng hộ”.
Nhưng khi Lê Liêm đọc bài tham luận chống Mao-ít trước hội nghị thì “Lê Duẩn bĩu môi, Lê Đức Thọ hầm hầm ...” Lê Liêm nhìn Hồ Chí Minh chờ đợi một lời ủng hộ “nhưng ông Hồ tránh ánh mắt của ông, quay đi nơi khác.” (15)

Tác giả nói về xu hướng tư tưởng của Lê Duẩn qua đánh giá của Hoàng Văn Hoan: “Hoàng Văn Hoan lầm to khi cho rằng Lê Duẩn theo Khrutshchev chống Mao, Lê Duẩn là xét lại. Trên thực tế, Lê Duẩn gần với Hoàng Văn Hoan hơn bất cứ ai trong ban lãnh đạo đảng thời kỳ đó. Cả hai đều là Tiểu Mao về tư tưởng.” (16)

Về việc cha con tác giả bị đảng bắt giam, tác giả nhận xét một cách chua cay: “Cũng nhờ Đảng, tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại có thể mê muội đến thế nhỉ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát cánh cùng ông trong những năm khó khăn gian khổ bị Lê Đức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm nhiên không hề can thiệp, dù chỉ để tìm hiểu ngọn nguồn?” (17)
“…Trong xà lim tôi có thừa thời gian để suy gẫm. Trong những điều tôi suy gẫm, có sự rà soát lại bệnh sùng bái ông Hồ mà thế hệ chúng tôi, kẻ ít người nhiều, đều mắc phải …Chúng tôi sùng bái ông bởi đạo đức vô song của ông. Chúng tôi coi ông là người tốt nhất trong mọi người. Ông là người duy nhất rũ sạch được mọi toan tính cá nhân để chỉ sống cho tổ quốc, cho đồng bào. Không gia đình, không tài sản, không công danh. Nhưng không phải thế.”

Vũ Thư Hiên trưng dẫn nhiều sự việc để chứng minh bốn chữ “nhưng không phải thế”.
Tác giả nhớ lại có lần Hồ Chí Minh nói theo Mao và Stalin “con người là vốn quý”, và nhận định: “Mà đúng: con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái gì đó. Khi là vốn nó thôi là người… Khi hành xử ông là một diễn viên kỳ tài.”

Tác giả đưa tiếp hàng loạt sự việc nêu rõ tài đóng kịch của Hồ Chí Minh nhưng nhìn nhận qua những việc đó, Hồ Chí Minh đã tự chứng tỏ “như một thuyền trưởng can trường, bình tĩnh chỉ huy con tàu trong cơn bão” và vì thế đã thu phục tình cảm của tác giả – “Lúc đó ông Hồ Chí Minh còn là bác Hồ kính yêu của tôi. Ông mở đầu pho sử hoành tráng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống lại chế độ thuộc địa toàn cầu, với tư cách một phong trào, chứ không phải cuộc đấu tranh của riêng một Việt Nam. Trận thắng Điện Biên Phủ đã thổi vào lòng các dân tộc bị trị niềm phấn khích chưa từng có, mở ra cao trào đấu tranh cho độc lập dân tộc trên khắp thế giới, thúc đẩy sự chấm dứt chế độ thực dân, làm tan rã hệ thống thuộc địa. Thế giới biết tên ông cùng với đất nước nhỏ bé dám dùng gậy tầm vông chống lại vũ khí hiện đại để giành độc lập, tự do. Tượng đài cho ông, với tư cách nhân vật lịch sử, đã được đúc…Nhưng tôi buồn. Tôi còn tiếc nữa. tôi đã quen nhìn ông không phải là chủ tịch Hồ Chí Minh, mà là bác Hồ của tôi. Không buồn sao được khi nhìn lại thấy trong tôi chỉ còn trơ trọi một niềm tôn trọng duy lý, một tình cảm lạnh lẽo đối với ông, như đối với một nhân vật lịch sử. Mà một thời ông đã từng có vị trí không nhỏ trong tim tôi.” (18)

Trước mắt Vũ Thư Hiên, Hồ Chí Minh đã bị xô khỏi vị trí thần tượng trong tim của một người để trở về vị trí của một nhân vật lịch sử có đủ mọi mặt từ tài ba đến tham vọng, từ xảo trá đến tàn ác. Về những đau thương bi thảm suốt nửa thế kỷ qua diễn ra trên đất nước Việt Nam, Hồ Chí Minh không thể rũ bỏ trách nhiệm của mình, nhưng theo tác giả, cũng không thể tách rời Hồ Chí Minh khỏi những kỳ tích của một phong trào đấu tranh suốt thời gian đó.
Tác giả còn so sánh Hồ Chí Minh với Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Kim Nhật Thành, Ceaucescu… mà tác giả đã được biết nhiều về họ và nhận thấy rằng dù sao Hồ Chí Minh cũng còn chút lòng nhân ái hơn những kẻ đó.
Tác giả tâm sự nếu Hồ Chí Minh là những người đó thì “hẳn tôi đã đi tù sớm hơn, hoặc đã chết trong tù, nếu không bị bắn. Tôi cho rằng sự biết ơn người có quyền giết mà không giếtmình cũng là cái nên có…”

Tác giả mỉa mai hay thành thực?
Điều này không quan trọng bằng sự việc đã có hàng triệu người chết. Những oan hồn uổng tử này liệu có đồng ý với tác giả là nên biết ơn Hồ Chí Minh chăng?
Trong tác phẩm của mình, Vũ Thư Hiên có nhắc mấy vần thơ của Chế Lan Viên lấy hứng từ lời tuyên bố của Lê Duẩn trong một bài nói chuyện nội bộ: “Ta đánh Mỹ là ta đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại...” (19)
Những kỳ tích mà Hồ Chí Minh đạt được với tư cách một nhân vật lịch sử chắc  khó tách rời khỏi cái hướng nhắm mà Lê Duẩn đã nói rõ. Trong trường hợp này, vị trí dành cho nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh có lẽ không xa với những nhân vật lịch sử đã quen tên như Trần Di Ái, Lê Chiêu Thống… Những kẻ này chỉ khác ở chỗ không đóng tốt đẹp nổi vai trò do ngoại bang trao phó nên cũng có thể coi là đã may mắn hơn Hồ Chí Minh về mức độ phạm tội đối với dân tộc.

CHÚ THÍCH
CHƯƠNG 38
(01)   Đêm Giữa Ban Ngày,  tr. 458
(02)   Nxb Văn Nghệ, Cali 1997.
(03)-(05)-(06)-(07)  SĐD  tr. 25, 201- 202, 221, 222
(04)-(08) SĐD  tr. 178, . 229, phần cước chú. 
(09)-(10)-(11)-(13)  SĐD  tr. 230, 247, 266, 332
(12)  Hồ Chí Minh viết với bút hiệu XYZ
(14)-(15)-(16)-(17)-(18)-(19) SĐD  tr. 347, 360, 369, 456, 229,422





Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen