Sonntag, 19. Oktober 2014

Hồ Tây và một trận thi chiến

Sáu tên gọi của hồ Tây trong lịch sử
Có lẽ không ai còn nhớ thuở khai thiên lập địa, hồ Tây ngày nay có tên gọi là gì.
Cũng như Đại La-Thăng Long-Đông Đô-Bắc Thành-Hà Nội hay đối với Sông Cái-Nhị Thủy-Nhị Hà-Hồng Hà, trải qua các thời kỳ lịch sử, Hồ Tây cũng có những tên gọi khác nhau.
Điều này phụ thuộc vào ý nghĩa văn hóa từng thời đại, cũng như ý chí chủ quan của con người, nên mỗi tên gọi ấy đều gắn với từng sự tích, từng câu chuyện dân gian.

Đầm Xác Cáo
Đầm Xác Cáo có lẽ là tên gọi xưa nhất của hồ Tây, gắn với sự tích con hồ ly tinh chín đuôi.
Sự tích kể rằng nơi đây ngày xưa là rừng rậm hoang vu và nhiều gò núi. Ở đó, có một con hồ ly tinh chuyên tác oai tác quái quấy nhiễu dân lành, nhưng việc diệt trừ hồ ly tinh được kể trong các câu chuyện dân gian cũng khác nhau.
Một chuyện cho rằng Lạc Long Quân vì thương xót con dân nên đã dâng nước biển dìm chết con cáo và tạo ra hồ nước.
Một câu chuyện khác kể về Huyền Thiên cũng vì thương xót và nghe lời cầu khẩn của dân chúng mà diệt trừ con cáo. Sau khi con cáo bị tiêu diệt, một hồ nước đã được tạo ra. Từ đó, hồ có tên là đầm Xác Cáo.
Nguyễn Huy Lượng trong "Tụng Tây Hồ phú" có câu:
"Trước bạch hồ nào ở đó làm hang,
Long vương hổ nên vùng đại trạch"
là để nói về sự tích này.

Hồ Kim Ngưu

Hồ Kim Ngưu gắn với sự tích con trâu vàng. Song sự tích này cũng được kể lại khác nhau.
Một câu chuyện kể rằng, khi con trâu vàng nghe tiếng chuông của ông Khổng Lồ ngỡ là tiếng mẹ gọi, bèn chạy từ Trung Quốc sang đến bên quả chuông lớn. Nó cứ loay hoay tìm quanh quả chuông, rút cuộc làm đất lở khiến cả quả chuông và con trâu sụt xuống tạo thành một vực sâu. Về sau mưa làm ngập lụt tạo thành hồ, cả quả chuông lẫn con trâu vàng đều không vớt được.
Câu chuyện khác thì kể rằng ngày xưa ở núi Tiên Du có con trâu vàng bị một Pháp sư yểm bùa, vùng dậy chạy. Chạy mãi, chạy mãi qua mỗi nơi, bằng sức mạnh của mình, nó đều tạo ra các dấu tích.
Cuối cùng nó chạy tới đầu sông Tô gặp một hồ nước, nó nhao xuống bơi lội thỏa thích rồi ở luôn trong lòng như đứa con lưu lạc vừa tìm được mẹ. Từ đó, hồ Tây có tên là hồ Kim Ngưu và dân gian còn truyền tụng câu:
"Trâu vàng ẩn mãi giữa hồ,
Nước dù cạn vẫn mịt mù tăm hơi"

Lãng Bạc

Theo "Tây Hồ chí", thì sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa bi hùng của Hai Bà Trưng, Tướng quân Mã Viện với tư cách là kẻ thôn tính văn hóa đã gọi hồ Tây là Lãng Bạc với ý nghĩa hồ đầy sóng vỗ. Tên gọi này thể hiện ý nghĩa rõ nhất vào những ngày giông bão, mặt hồ rộng, sóng nước nổi lên ầm ầm, tạo ra một cảnh hồ hùng tráng và nên thơ.

Dâm Đàm

Dâm Đàm với ý nghĩa là đầm tràn đầy nước. Có lẽ ý nghĩa ấy muốn nói tới sự rộng lớn, mênh mang sóng nước của hồ Tây.
Tên gọi này cũng không biết chính xác được gọi trong thời gian nào, nhưng theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng thì Dâm Đàm có tên thật từ thời Lý-Trần (thế kỷ X-XV) với huyền tích Lý Nhân Tông ngồi thuyền Mục Thận xem đánh cá, gặp sương mù, có thuyền tới gần, trên có hổ, Mục Thận quăng lưới bắt hổ, hóa ra đó là Thái sư Lê Văn Thịnh, và ông cho rằng Dâm Đàm nghĩa là hồ mù sương.
Câu chuyện về vụ Thái sư Lê Văn Thịnh mưu hại Vua Lý Nhân Tông được các sách ghi chép khác nhau.
Sách "Việt điện u linh", truyện "Thái úy Trung duệ Vũ Lượng Công của Lý Tế Xuyên" (Thế kỷ XIII) có đoạn viết: "Vào thời Lý Nhân Tông, quan Thái sư Lê Văn Thịnh nuôi được một tên gia nô người Đại Lý, có thuật lạ đọc thần chú biến được thành hổ báo. Lê Văn Thịnh cố dỗ dành tên gia nô dạy pháp thuật cho mình, sau khi học được rồi thì Văn Thịnh lập mưu giết chết tên gia nô.”
Vụ án Đâm Đàm này là một câu chuyện hoang đường, đó chỉ có thể là một màn ngụy trang cho một sự tranh giành quyết liệt trong nội bộ triều đình nhà Lý vào cuối thế kỷ XI và sự thất thế dẫn đến việc buộc phải ra đi của Lê Văn Thịnh. Hoặc câu chuyện phản ánh mâu thuẫn về tôn giáo, tư tưởng xã hội của thời đại.
Lúc này, Nho giáo đang dần khẳng định vị trí của mình mà Lê Văn Thịnh là người khai khoa cho lịch sử khoa cử Nho giáo Việt Nam. Lê Văn Thịnh quê ở Bắc Ninh, ông đỗ đầu khoa Minh kinh bác học năm 1075, đời Lý Nhân Tông, ông từng làm chức Thị lang Bộ Binh.
Năm 1084, ông làm Chánh sứ đi sứ sang Tống, bằng tài ngoại giao, ông đòi lại được vùng đất Vật Dương, Vật ác (Cao Bằng) từ triều đình phương Bắc. Vì công lao của ông đối với triều chính, Lê Văn Thịnh được phong Thái sư năm 1096.
Sử sách không thấy ghi mâu thuẫn triều chính của Lê Văn Thịnh nên khi vụ án Dâm Đàm xảy ra, ông bị xích sắt đóng cũi và bị đày lên thượng nguồn Sông Thao nhưng không bị giết vì Vua đã nghĩ đến công lao của ông.
Còn Mục Thận làm nghề chài lưới đánh bắt cá ở Dâm Đàm, nhờ có công cứu Vua Lý Nhân Tông nên được phong làm Đô uý và được ban đất quanh hồ làm thực ấp. Khi mất, ông được lập đền thờ ở làng Võng Thị, truy phong tước Thái úy Duệ Lượng Công.
"Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời,
Tay lưới phép còn ghi công bắt hổ"
(Nguyễn Huy Lượng, "Tụng Tây Hồ phú")
Một vụ án đậm chất thần bí, hoang đường ma thuật phản ánh mâu thuẫn tôn giáo của một thời đại. Về sự việc này, Vua Tự Đức (1848-1883) có thơ vịnh:
"Yên ba cửa dĩ ký bình tung,
Tự liệu quân vương giải cấu phùng
Võng lý vô ngư hoàn hữu hổ
Tây Hồ hà loạn thiếu ngư long"
(Khói sóng đã lặng yên, việc cũ qua rồi, giúp nhà Vua, mà gỡ bỏ mối gặp gỡ. Trong lưới không có cá, chỉ có hổ. Lo gì hồ Tây thiếu cá)

Tây Hồ
Sử sách ghi rằng: “Đến năm 1573, để tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông là Duy Đàm, người ta đổi là Tây Hồ.”
Cái tên Tây Hồ có từ đó, ngoài lý do trên, có lẽ việc đặt tên này nhằm sánh với phương Bắc, vì ở Trung Quốc cũng có Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu. Việc đặt tên các địa danh, sông hồ của Việt Nam theo Trung Quốc là chuyện bình thường.
Nhiều người giải thích rằng Tây Hồ nghĩa là hồ phía Tây kinh thành, e không hợp lý. Cũng như Hà Đông, nếu xem bản đồ Hà Nội, thì địa danh trên không đúng theo phương vị Đông và Tây.
Tây Hồ là cách đọc Hán Việt của hồ Tây, và hồ Tây đã trở thành cái tên gần gũi, lâu dài, nên thơ nhất đối với người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước.
Đoài Hồ
Chúa Trịnh Tạc (1657-1682) được phong tước Tây Vương, nên địa danh có chữ Tây bị ông ra lệnh đổi thành Đoài (quẻ Đoài thuộc phương Tây - ý nghĩa như nhau, âm và chữ khác nhau) như Sơn Tây gọi thành Xứ Đoài, bởi vậy nên Tây Hồ được gọi là Đoài Hồ. Nhưng cái tên Đoài Hồ không được dùng lâu, đến hết đời Chúa Trịnh Tạc dân ta gọi lại như cũ là hồ Tây./.
Ngày nay, khi xem những tấm ảnh tư liệu mà người Pháp chụp được về Hà Nội trong khoảng vài thập niên cuối thế kỷ XIX, ai nấy đều hết sức ngỡ ngàng. Chưa nói chuyện Hà Nội hồi hơn một trăm năm trước xấu hơn hay đẹp hơn so với Hà Nội bây giờ, nhưng đó là một Hà Nội hoàn toàn khác.
Hữu thị lang bộ Hộ Nguyễn Huy Lượng
Vốn chẳng có gì là nặng nợ với vua Lê - chúa Trịnh nên Nguyễn Huy Lượng đi theo Tây Sơn với tất cả tấm thịnh tình và nhiệt tình. Ông sẵn sàng đem ngòi bút tức cũng là tâm hồn mình mà phục vụ một triều đại tiến bộ, và thực tế là đã viết nên những tác phẩm văn học tiêu biểu cho thời kỳ lịch sử vẻ vang này.
Họ Nguyễn Huy là một trong những họ có nhiều người hiển đạt của làng Phú Thị nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Huy Nhuận là tiến sĩ năm 1703 (tể tướng). Con ông là Huy Dẫn tiến sĩ năm 1748. Con ông Dẫn là Huy Cẩn, tiến sĩ năm 1760, v.v. Cho đến cuối thế kỷ thứ XIX, cử nhân Nguyễn Huy Đức rời sang sống ở làng Vũ Thạch nay là khu vực đầu phố Bà Triệu phía nam Hồ Gươm (Hà Nội), mở trường dạy học. Trường Vũ Thạch đã đào tạo ra các vị nho sĩ yêu nước chống Pháp mà tiêu biểu là Lương Văn Can, linh hồn của phong trào Đông Kinh nghĩa thục.
Dường như ông thân sinh ra Huy Lượng có dính líu đến vụ tố cáo âm mưu Trịnh Khải chống lại cha là chúa Trịnh Sâm, nên khi Trịnh Khải lên làm chúa thì ông phải lánh sang tị nạn ở làng Lương Xá. Có lẽ vì vậy mà sách Lược truyện các tác gia Việt Nam của nhóm Trần Văn Giáp ghi: “Nguyễn Huy Lượng, nguyên quán làng Phú Thị huyện Gia Lâm, sau di cư sang làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây” (tập 1, tr. 331).
Dưới thời Lê - Trịnh, Nguyễn Huy Lượng thi đỗ Hương cống, được bổ làm Phụng nghị ở bộ Lễ (tức là một chức quan nhỏ phụ trách việc xem xét các lễ vật khi cúng tế).
Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), Quang Trung ra Bắc, đại phá quân Thanh, giải phóng Bắc Hà thì Nguyễn Huy Lượng nhận ra được con đường đúng đắn mà mình phải noi theo: Dứt khoát đi cùng Tây Sơn.
Bấy giờ, trước thắng lợi vang dội của phong trào nông dân đã đưa người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ lên ngai vàng, các nho sĩ Bắc Hà hoang mang, phân hoá. Kẻ thì bám theo Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh cố tôn phò cái thần tượng quá mục ruỗng. Kẻ thì lén lút thổi bùng lên đống tro phủ chúa đã tàn lạnh. Kẻ thì nghĩ tới Nguyễn Ánh với hy vọng cứu vãn đặc quyền đặc lợi của giai cấp mình. Kẻ thì mũ ni che tai, quay lưng lại thời cuộc...
Chỉ có một số ít kẻ sĩ sáng suốt, nhìn thấy phương hướng của lịch sử, đã quyết tâm đi theo phong trào nông dân. Trong số đó có Nguyễn Huy Lượng. Vốn chẳng có gì là nặng nợ với vua Lê - chúa Trịnh nên Nguyễn Huy Lượng đi theo Tây Sơn với tất cả tấm thịnh tình và nhiệt tình. Ông sẵn sàng đem ngòi bút tức cũng là tâm hồn mình mà phục vụ một triều đại tiến bộ, và thực tế là đã viết nên những tác phẩm văn học tiêu biểu cho thời kỳ lịch sử vẻ vang này.
Cho nên tới năm 1801, vua Quang Toản làm lễ tế giao ở một địa điểm gần hồ Tây, đã giao cho Nguyễn Huy Lượng, bấy giờ đang là Hữu thị lang bộ Hộ, soạn một bài thơ và một bài phú tiến dâng. Đây là lúc triều đại Tây Sơn sắp tàn mà ông vẫn viết nên bài phú Tụng Tây Hồ với một bút lực rất cứng cáp, trước sau vẫn một niềm say sưa không giảm, ngợi ca công đức của Tây Sơn, dù rằng lúc này ông đã 50 tuổi.(1)
Sau khi Tây Sơn bị diệt, triều Nguyễn Gia Long triệu tập ông, bổ làm tri phủ phủ Xuân Trường (Nam Định). Ông mất khi đang tại chức năm 1808.
Nguyễn Huy Lượng có một tập thơ Cung oán thi gồm mười bài thất ngôn Đường luật. Mở đầu thi phẩm, ta bắt gặp tiếng nói oán thán của một con người bị vùi dập, lãng quên, một thân phận cô đơn:
Cuốn bức khăn là nước mắt đầy
Nỗi riêng mình lại một mình hay
Con chim bạt gió ngâm sầu đỡ
Chiếc nhạn kinh sương nặng tủi dày.
Hoàn cảnh lẻ loi, đơn chiếc, bị ruồng bỏ này cứ day dứt hoài, trở đi trở lại trong nhiều đoạn thơ khác nhau:
Lò chăn thúy vũ năm canh gió
Dầm gối san hồ một vệt sương
… Giời bốn mùa thu hoa ủ mặt
Rèm năm canh nguyệt liễu tan mày
… Bức lạnh lầu trang sương đóng váng
Mây giăng non Thục én khuây chừng.
Nếu như ở Cung oán ngâm khúc Nguyễn Gia Thiều đã lên án vua chúa bạc tình:
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi cho hoa rữa nhị dần lại thôi
Thì ở Cung oán thi, Nguyễn Huy Lượng cũng tố cáo vua chúa phụ bạc:
Điện Phong cao thẳm thấu cùng chăng
Cung Quảng sao riêng phụ ả Hằng?
Cung oán thi tuy tầm vóc chưa bằng Cung oán ngâm khúc nhưng cũng thể hiện cái nhìn nhân đạo của tác giả Nguyễn Huy Lượng đối với một lớp người là nạn nhân của chế độ cung tần dâm bạo.
Bài phú Tụng Tây Hồ là một kiệt tác của Nguyễn Huy Lượng nói riêng và văn học cổ điển Việt Nam nói chung. Bài phú ca ngợi cảnh trí Hồ Tây nói riêng, Thăng Long nói chung và qua đó ca ngợi sự hiển hách của triều Tây Sơn.
Hồ Tây với tư cách là một phần của kinh đô Thăng Long đã hiện ra thật mỹ lệ:
Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng leo lẻo:
Hình lượn lượn uốn vòng câu bạc, tưởng vầng trăng rơi xuống mảnh nhò nhò.
Hồ Tây đã ấp ủ bao truyền thuyết thơ mộng và kỳ vĩ, bao dấu vết lịch sử đẹp đẽ và hào hùng: “Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời”, “Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển”, và nào là “Quán Nhiên Niên”, “Ghềnh Vạn Bảo”, “Chùa Trấn Quốc”, “Tòa Kim Liên”... Nhưng quan trọng hơn là tác giả đã cho thấy sức sống của hồ Tây. Đó là cuộc sống lao động cần cù của những người dân ven hồ, cuộc sống đang độ phát triển và những chính sách cởi mở khuyến khích của Tây Sơn mà có. Đó còn là sự phồn thịnh trở lại của các nghề cổ truyền như: dệt gấm, đúc đồng, ươm tơ, xeo giấy v.v… là những sinh hoạt kinh tế nhộn nhịp, thuyền buôn tấp nập, chài lưới rộn ràng:
Rập dềnh cuối bãi Đuôi nheo, thuyền thương khách chen buồm bươm bướm…
Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng; Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm.
Sen vũng nọ nẩy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò.
Tuy rằng bài phú có nhiều điển tích và từ Hán Việt như vậy, hạn chế tất nhiên của nền văn chương khuôn sáo lúc bấy giờ, nhưng thực ra tác phẩm này cũng rất giàu chất tả thực, chứ không phải chỉ thuần là hình ảnh ước lệ như một số bài phú đương thời.
Còn gì thực bằng hình ảnh người giặt tơ khuya chợt vốc nước lên và chợt thấy một vầng trăng lóng lánh trong bàn tay, hoặc người đi hái hoa sáng sớm, dẫm lên những bông hoa rụng, hương hoa vương vào gót chân thơm lừng khác nào đạp lên một túi xạ hương:
Bến giặt tơ, người vốc nước còn khuya, gương thiềm đựng trong tay lóng lánh:
Vườn hái nhị, người dày sương hãy sớm, túi xạ rơi dưới gót thơm tho.
Và dù là viết về hồ Tây nhưng thành công của bài phú là đã giúp người đọc đang hình dung ra cả thành Thăng Long đang “hồi sinh” cùng với thắng lợi của khởi nghĩa nông dân. Thăng Long vốn có một truyền thống lịch sử lâu đời:
Tựa bóng hoa đặt quán Ngư, kìa đời Gia Khánh
Đè mặt sóng đem đường Dụ Tượng, nọ thuở Kiền Phù (2)
Thăng Long cũng có lúc “nổi bụi tiêu đường”, “góp phần tang hải”. Nhưng từ khi có triều Tây Sơn, Thăng Long cũng như cả nước ta như được “sống lại”, kẻ thù bị đánh tan, nhân dân được yên ổn làm ăn, núi sông như được rửa sạch tủi hờn, cỏ cây cũng được khoe hương khoe sắc:
Tới Mậu Thân từ rỡ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch
Qua Canh Tuất lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức triêm phu.M
Mậu Thân là năm 1788, năm mà Nguyễn Huệ chuẩn bị đánh tan 29 vạn quân Thanh, giải phóng Bắc Hà. Canh Tuất là năm 1790, năm mà những đạo hùng binh của Tây Sơn quét sạch bọn phản động trong và ngoài nước, bao gồm bọn quý tộc quan lại cũ câu kết với vua Vạn Tường và một số tù trưởng phong kiến miền Tây vùng Thanh - Nghệ.
Rõ ràng là các chiến công của đoàn quân Tây Sơn đã làm cho đất nước “hồi sinh”. Những chiến công ấy phải nói là thần kỳ, khác nào ánh mặt trời xua tan bao chướng khí:
Hơi yêu mị quét dưới cờ thanh đạo
Ánh tường quang tuôn trước ngọn huyền lô
Đoàn quân nông dân bách chiến bách thắng ấy với cờ xí rợp trời, giáo gươm lòa đất, oai hùng dũng mãnh đã làm cho cảnh tượng đất nước thêm tưng bừng, đầy tráng khí:
Vẻ hoa lẫn dấu cờ năm thức
Mặt nước in bóng giáo ba ngù.
Với Tây Sơn, quả thật thiên nhiên cũng như trở mình, khởi sắc, mang một diện mạo mới mẻ:
Vùng trì chiểu nước dần dần lặng; nơi đình đài hoa phới phới đua.
Vẻ hoa thạch châu thêu, gấm dệt;
Tiếng trùng cầm ngọc gõ, vàng khua.
Dưới triều Tây Sơn, khắp nơi vui vầy, thanh bình:
Bãi cỏ non, trâu thả, ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi
Làn nước phẳng kình chìm, ngạc lặn, ao Hán nào mấy trẻ reo hò.
Cho tới cuối bài phú, Nguyễn Huy Lượng vẫn một niềm vui say không giảm, vẫn tỏ ra tin tưởng ở ông vua trẻ Quang Toản, vẫn hy vọng, dù lúc này tiếng dội thắng lợi của Nguyễn Ánh trong miền Trung đã vang ra tới Bắc Hà.
Trước sau Nguyễn Huy Lượng vẫn tán dương sự nghiệp của Tây Sơn, vẫn bày tỏ lòng trung thành với chế độ này vì chế độ này là chính nghĩa.
Với bài phú Tụng Tây Hồ ta có thể nói rằng: Nguyễn Huy Lượng là người đã vận dụng thể phú để sáng tạo một công trình cao hơn rất nhiều một bài phú cổ điển thông thường. Nguyễn Đổng Chi và Phương Chi đã có lý khi nhận định rằng: “Bài phú này đã là “một bức minh họa về hồ Tây” từ trước chưa từng có, đồng thời cũng là một thiên sử ca tương đối quy mô về Thăng Long, mà cái ý nghĩa quý giá nhất là nó đã trực tiếp được xây dựng dưới ánh sáng của phong trào nông dân khởi nghĩa, tiếp thu được đến chừng mực nào đó là cái âm hưởng lạc quan đầy phấn khởi do một phong trào nông dân lớn nhất trong lịch sử mang lại. Với ý nghĩa là một áng sử ca, nó là những lời ca ngợi chân thành chiến công cứu nước của Nguyễn Huệ, chiến công có ý nghĩa đổi đời cho Thăng Long, và rộng ra là cả xã hội Việt Nam. Với ý nghĩa là một bức hoạ, phần nào nó đã ghi lại khung cảnh sinh hoạt tươi đậm của Thăng Long dưới triều Tây Sơn”(3). Minh đô sử cũng ghi lại một chi tiết khá lý thú góp phần nói lên giá trị của bài phú này: “Nguyễn Huy Lượng hiến Tây Hồ tụng, nhân tranh truyền tả, đô hạ vị chi chỉ quý”. Nghĩa là: “Nguyễn Huy Lượng dâng phú Tụng Tây Hồ. Người ta tranh nhau truyền chép, ở kinh đô giấy quý hẳn lên”.
Thật chẳng khác nào câu chuyện “Lạc Dương giấy đắt” thuở xưa(4).
Nói về Tụng Tây Hồ phú mà không nhắc tới một bài phú đối cực với nó là bài Chiến tụng Tây Hồ phú của Phạm Thái thì e cũng chưa là đầy đủ.
Phạm Thái có biệt tài về văn Nôm. Tập truyện Sơ kính tân trang cũng như những bài văn tế chị, văn tế Quỳnh Như là những bài văn kiệt tác. Nhưng suốt đời ông đã có thái độ chống đối Tây Sơn, một mực tôn phù nhà Lê - Trịnh đồi bại, cho nên khi thấy bài phú nổi tiếng của Nguyễn Huy Lượng ra đời thì ông ta phản ứng, viết bài Chiến tụng để chống.
Không phải Phạm Thái không thấy giá trị của bài tụng. Qua lời tiểu dẫn do chính ông viết, ta thấy ban đầu thoạt đọc, ông cũng lấy làm hay, hỏi ngay: “Ai làm bài ấy mà hay thế”? Song lúc “Bạn rằng: Chương Lĩnh hầu Hữu hộ Lượng làm” thì ông ta thay đổi thái độ: “Ta rằng: Chao ôi! Hữu hộ Lượng à! Xưa hắn làm tôi triều Lê, nay ra làm nguỵ lại còn tụng Tây Hồ mà chẳng thẹn mặt... Nay nhân bỉ kẻ làm bài tụng, ta cũng làm bài Chiến tụng để góp chút trò cười với đời”!
Thì ra Nguyễn Huy Lượng vốn là tôi cũ của nhà Lê mà lại dám ca ngợi Tây Sơn nên Phạm phản đối, công kích. Chủ ý sáng tác của ông như vậy là rõ ràng quá rồi. Cho nên để đối lại những nét vẻ đẹp của Nguyễn Huy Lượng về Hồ Tây và Thăng Long, Phạm Thái đã đưa ra những hình ảnh xấu xí:
Đường Quan Thánh khéo lăng nhăng lít nhít,
Bãi Đuôi Nheo tanh ngắt giống tinh chiên…
Có lúc trước sự thật hiển nhiên là Thăng Long vui đẹp, không thể phủ nhận nổi, thì Phạm Thái nói trắng ra là mình ... có thù nên không vui: Người đến buổi quan hà về kẻ khác, thù non sông nghĩ mình chưa trả được dẫu có trăng trong gió mát, mặt mũi nào mà vui với cảnh ru.
Thật là một tư tưởng chính trị thù nghịch với Tây Sơn, và một quan điểm nghệ thuật chủ quan hết mực!
Ấy thế mà có lúc những sinh hoạt rộn ràng của Thăng Long vẫn cứ in hình trong bài Chiến tụng này, điều đó có nghĩa là Thăng Long thời Tây Sơn quả có đổi thay, mang sinh khí mới, nên dù phản đối như Phạm Thái cũng phải ghi chép lại hiện thực đó:
Khói lò gạch thổi lưng trời ngùn ngụt
Sông cánh hàn xô sườn đá ồ ồ
Phường Khán Sơn hoa kết võng vừa rồi
Chợ Võng Thị rượu nồng hương mới chín…
Trong lĩnh vực văn hóa Phạm Thái mỉa mai: “Văn chương ngẫm chẳng soi hiền thánh” và “chữ nghĩa cua bò, lăng nhăng như thảo”. Thì chính việc mỉa mai này lại cho ta thấy một sự thật: trong văn chương thi cử, nhà Tây Sơn chẳng chuộng gì nề nếp của thánh hiền; chính trong một bài chiếu nói thi cử Quang Trung đã chê lối văn “phù hoa”, “tầm chương trích cú” kiểu thánh hiền giáo điều. Nhất là Quang Trung lại bắt thi bằng cả thứ chữ mà Phạm Thái gọi là “cua bò”, tức chữ Nôm với dụng ý đề cao tiếng nói và chữ viết của dân tộc. Việc làm có tính cách mạng như vậy thì hẳn họ Phạm không sao tán thưởng được.
Về võ bị, Phạm cũng công kích: Võ sự xem ra khổ man di, thằng chọc tới, đứa hè vào, chiến trận ấy cũng cờ giong trống giục.
Những lời hằn học này cũng chẳng có gì là lạ. Ai mà không nhớ rằng chính Phạm Thái và cánh “phù Lê” cùng các quan thầy như Tôn Sĩ Nghị, Sầm Nghi Đống đã thất điên bát đảo vì cái “võ sự man di” đó!
Tới cuối bài, lập trường phản đối của chàng chiêu họ Phạm càng rõ hơn. Vì quá uất ức với Tây Sơn đã làm cho đẳng cấp mình mất địa vị thống trị, Phạm Thái cũng đâm ra ghét cả chiến công của Tây Sơn đánh tan quân Thanh xâm lược, đồng thời thời ghét luôn tất cả các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Phạm coi khởi nghĩa của Hai Bà Trưng như khí độc (?!) và Mã Viện đánh thắng Hai Bà khác nào xua tan khí độc. Phạm đã đau lòng cùng với sự thất bại của Tôn Sĩ Nghị:
Bên cầu vồng nghe nhịp trống trăng khua, vì Nam tướng phải căm lòng Bắc sĩ.
Thực ra người trí thức chân chính, trong lúc xã hội đang chuyển mình, cần phải xác định ranh giới giữa lợi ích dân tộc và lợi ích đẳng cấp. Phạm Thái đã không xác định được như vậy. Và bài Chiến Tụng là một bằng chứng cụ thể. Cuối cùng cũng phải nhắc tới bài thơ mà Nguyễn Huy Lượng dâng lên Quang Toản cùng lúc với bài Tụng Tây Hồ phú.
Đó là một bài thơ Nôm làm theo thể Đường luật, thất ngôn bát cú có nhan đề là Vịnh Tây Hồ, nguyên văn như sau:
Đầy vơi thực lạ cảnh Tây Hồ
Trước bởi khôn thiêng khéo vẽ đồ
Mây lẩn nước xanh màu đúc ngọc
Nguyệt lồng hoa thắm vẻ in châu
Cây la tán rợp tầng cao thấp
Sóng gẩy cầm tâu nhịp nhỏ to
Vầy chốn chốn tiên non nước đủ
Tây Hồ giá ấy dễ đâu so
Đây lại là một bài làm theo lối thuận nghịch độc nên đọc ngược lại thì có một bài thơ thứ hai:
So đâu dễ ấy giá Hồ Tây
Đủ nước non tiên chốn chốn vầy
To nhỏ nhịp tâu cầm gẩy sóng
Thấp cao tầng rợp tán la cây
Châu in vẻ thắm hoa lồng nguyệt
Ngọc đúc màu xanh nước lẩn mây.
Đồ hoạ khéo thiêng khôn bởi trước
Hồ Tây cảnh lạ thực vơi đầy.
Ngoài những tác phẩm trên, Nguyễn Huy Lượng còn có Lượng như long phú và đáng chú ý là bài Văn tế trận vong tướng sĩ.(5) Về bài văn tế nổi tiếng này, có một vài tài liệu không khẳng định tác giả là ai, hoặc cũng có tài liệu cho rằng đó là của Võ Lượng hay của Đặng Đức Siêu.
Tuy nhiên, vượt lên toàn bộ tác phẩm của ông vẫn là Tụng Tây Hồ phú, và chỉ cần một kiệt tác này thôi cũng đủ để tiêu biểu cho văn chương, sự nghiệp và chí hướng của con người Nguyễn Huy Lượng.

(1) Vì ở cuối đoạn phú này, khi nói về bản thân mình, ông có viết : Ngoài năm mươi thẹn bóng tang du. Như vậy là rất có thể ông chào đời vào những năm bốn mươi của thế kỷ XVIII.
(2) Đây là niên hiệu các vua nhà Lý: Kiền Phù (l034 - l041), Gia Khánh (l059 - l064).
(3) Bài đã dẫn.
(4) ở Trung Quốc đời Tần, có Tả Tư (250 - 305) viết bài Tam đô phú rất nổi tiếng. Người ở kinh đô Lạc Dương tranh nhau chép bài phú này, khiến giấy trở nên khan hiếm và giá đắt vọt lên.
(5) Theo Minh đô sử thì năm 1802, khi hạ được thành Thăng Long thì tướng của Gia Long là Nguyễn Văn Thành có tổ chức một cuộc tế các lính tráng chết trận. Ông ta có nhờ Huy Lượng làm một bài văn tế, lâu nay vẫn quen gọi là “Văn tế trận vong tướng sĩ” mà các sách văn học sử cũ đều ghi tên tác giả là Nguyễn Văn Thành.
Khác về quy mô, khác về kiến trúc, khác đến từng chi tiết diện mạo ở những nơi chốn đã trở nên vô cùng quen thuộc với người Hà Nội ngày hôm nay. Giả sử người Pháp đẩy thời điểm chụp ảnh ngược về gần một trăm năm trước, có lẽ chúng ta sẽ lại có một Hà Nội khác hơn thế nữa.
Điều ấy tất nhiên đã không xảy ra. Thế nhưng, cái việc mà nhiếp ảnh chưa làm được thì văn chương làm được: trong khoảng hai năm đầu tiên của thế kỷ XIX, với sự xuất hiện hai bài phú Nôm, "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Huy Lượng và "Chiến tụng Tây Hồ phú" của Phạm Thái, Hồ Tây và những khu vực phụ cận - một không gian văn hóa đặc trưng của Hà Nội - đã được vẽ lại bằng ngôn từ, và được vẽ lại theo những cái nhìn - phối cảnh rất đối nghịch.
Sở dĩ có thể nói đến chuyện "vẽ lại" ở đây, ấy bởi đặc điểm thể loại (thể phú) của hai tác phẩm mà ra. "Phú giả phô dã"- phú là để bày ra, phô ra, để tự sự, để miêu tả. Những tác phẩm phú (chữ Hán) nổi tiếng như "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu, "Chí Linh sơn phú" của Nguyễn Trãi hay "Trảm xà kiếm phú" của Sử Hy Nhan là những ví dụ sáng giá cho khả năng tự sự và miêu tả của thể phú. (Xin mở ngoặc đơn để nói thêm: thời trung đại, phú - chứ không phải thơ - mới là thước đo cao nhất để biết ai là người "hay chữ".
Về thơ, Sào Nam Phan Bội Châu chưa phải một tác giả xuất sắc nhất nhưng lại khiến làng văn đương thời phải rạp mình kính nể, đó là vì ông là một tác gia cự phách về phú). Hai bài phú Nôm đang được nói đến cũng vậy: trùng trùng điệp điệp những miêu tả cảnh quan khu vực Tây Hồ, lớp gần lớp xa, liên miên như không dứt. Nhưng, đúng như ý nghĩa đối chọi mà cặp nhan đề "Tụng/ Chiến tụng" đã hé lộ, hai bức tranh được miêu tả ở đây là hai bức tranh đối nghịch - đối nghịch cả về chi tiết, ánh sáng, màu sắc, âm thanh lẫn các sắc thái cảm xúc.
Trong mắt Nguyễn Huy Lượng, cảnh quan Tây Hồ xinh đẹp, nên thơ, tựa chốn thần tiên: "Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo/ Kình lượn lượn uốn vòng câu bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò/ Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc/ Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa", thì trong mắt Phạm Thái, cảnh Tây Hồ hoang lạnh, u ám, như một thế giới đầy âm khí: "Bãi Dâm Đàm gió thét trận Trưng Vương, khí chướng vụ khua tan đầu lĩnh ngất/ Gò Lãng Bạc tuyết tan đồn Bắc tướng, đoàn lộ âu tắm lẫn bóng giăng nhờ/ Có thu nguyệt mới nước trời lẫn sắc/ Chửa xuân thiên sao hoa cỏ nhiều mùa".
Trong mắt Nguyễn Huy Lượng, Tây Hồ là cả một quần thể di tích đẹp, có sức nhắc gợi quá khứ, khiến cho lịch sử và huyền thoại luôn đồng hiện với con người ngày nay: "Tòa thạch tháp, nọ nơi tiên để báu/ Chốn thổ đôi, kia chỗ Khách chôn bùa/ Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ/ Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa/ Kề bến nọ, quán Thiên Niên lớp lớp/ Cách ngàn kia, ghềnh Vạn Bảo nhấp nhô", thì trong mắt Phạm Thái, quần thể di tích của Tây Hồ đã trở nên hoang tàn, đã tắt ánh hào quang huyền thoại, đã mất thiêng: "Tòa thạch tháp đã tản bình xá lỵ/ Đống thổ đôi đà nát dấu chôn bùa/ Lưới Mục Lang âu nát mất cả giềng, gian chẳng bắt nữa hoài công bắt hổ/ Gươm Trấn Vũ chỉ còn trơ những sống, giặc không giam mà còn sức giam rùa/ Thiên Niên nếu được lâu, sao quán nát?/ Vạn Bảo nào có báu, để ghềnh nhô?".
Trong mắt Nguyễn Huy Lượng, Tây Hồ là vùng đất lành, nơi có thể thắp lên những tình cảm tôn giáo cao khiết, lại vừa là nơi cư dân tụ hội đông vui, làm ăn buôn bán sầm uất, mọi người sống một đời sống an bình no ấm: "Tòa Kim Liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in mùi Tịnh Phạn/ Hàng cổ thụ gió rung bóng lục, tràng Phụng Thiên nhân sẵn thú Nghi Vu/ Dấu Bố Cái rêu in nền phủ/ Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa/ Trông mơ màng dường Đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu lích chích/ Nghe phảng phất ngỡ Động Đào mái nọ, mấy tiếng gà trong tại gáy o o/ Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút/ Ghềnh nhật Chiêu sóng giật ì ồ/ Rập rềnh cuối bãi Đuôi Nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm/ Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng còn hé cửa tò vò", thì trong mắt Phạm Thái, Tây Hồ là cả một nền cảnh cực kỳ lộn xộn chắp vá, đạo thì nực mùi trần mà trần thì lại đầy những tạp hình tạp âm tạp vị (không loại trừ vị của chất thải - niệu thỷ) khiến cho ai nấy đều ngao ngán: "Ngẫm tăng ni thơ thẩn khổ tu hành, anh áo vóc, chị mũ vàng, đỏng đảnh thế ở làm giông phạn vũ/ Xem đồng quán dở dang chiều lý thú, đứa quả đào, thằng khăn trắng, náo nức thay chạy đến quấy Nghi Vu/ Ông Đá dãi dầu hình tượng miếu/ Bà Đanh vắng ngắt tiếng chuông chùa/ Nhà tranh đua đều khấn Bụt cầu giời, đường Quan Thánh khéo lăng nhăng lít nhít/ Chợ xào xạc những buôn hùm bán quỷ, mái Trường Lương nghe lếu láo ỷ o/ Khói lò gạch thổi lưng trời ngùn ngụt/ Sông cánh hàn xô sườn đá ồ ồ/ Bãi Đuôi Nheo tanh ngắt giống tinh chiên, nước trong hờn vẻ nguyệt chẳng còn ưa, thuyền du tử lái quay ra cho chóng/ Hồ Cổ Ngựa thối hoăng mùi niệu thỷ, hoa thơm giận chiều xuân sao nỡ phụ, lều cư nhân gianh nát đã như vò".
Trong mắt Nguyễn Huy Lượng, không phải tự nhiên mà cảnh Tây Hồ lại đẹp đẽ nhường ấy. Đã có lúc tất cả cảnh trí ở đây đều hoang lương quạnh quẽ. Đó là giai đoạn kéo dài sáu năm trời: từ năm Canh Tý (1780), năm Trịnh Khải âm mưu đảo chính, đến năm Bính Ngọ (1786), năm Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt Trịnh. Trật tự chỉ được vãn hồi kể từ khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, tiến quân ra Bắc lần thứ hai, đánh tan đạo quân xâm lược của Tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị rồi chính thức đặt sức mạnh vương quyền của mình trên đất Bắc Hà. --PageBreak--
Nguyễn Hữu Lượng không tiếc lời để tả những thay đổi tốt đẹp lớn lao mà sự có mặt của triều Tây Sơn đã mang tới cho cảnh Tây Hồ: "Tới Mậu Thân (1788) từ rỡ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch/ Qua Canh Tuất (1790) lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức triêm nhu/ Vũng trì chiểu nước dần dần lặng/ Nơi đình đài hoa phới phới đua/ Chốn bảy cây còn mấy gốc lăng vân, chẳng tùng bách cũng khoe hình thương lão/ Nơi một bến đã đông đoàn hý thủy, tới uyên ương đều thỏa tính trầm phù/ Vẻ hoa thạch châu thêu gấm dệt/ Tiếng trùng cầm ngọc gõ vàng khua". Ông cũng không quên ca ngợi, một cách trực tiếp, ơn đức của nhà Tây Sơn, và đặc biệt là ông nhấn mạnh vào phẩm chất khoan dung, sự độ lượng của tân triều trước những kẻ bắt chước Bá Di, Thúc Tề, Hứa Do, Sào Phủ bất hợp tác với chính quyền: "Bãi cỏ non, trâu thả ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi/ Làn nước phẳng, kình trầm ngạc lặn, ao Hoàng nào mấy trẻ reo hò/ Mặt đất đùn này thóc này rau, dầu lòng Cô Trúc/ Làn nước chảy nọ dòng nọ bến, mặc chí Sào Do".
Trái lại, trong mắt Phạm Thái, sự có mặt của nhà Tây Sơn mang đến một kết quả khác hẳn. Và bức tranh mà ông phác ra đã vượt quá khung khổ của cảnh trí Tây Hồ: "Quỷ dạ xoa quấy Bụt xuống chi đây, người bách nghệ đến đâu đều khổ não/ Thần hạn bạt nát ai ra đấy tá, kẻ tam nông mong chẳng được tô nhu/ Cơn binh hỏa trải mấy tao dời đổi/ Buổi phong trần thêm mấy dịp tranh đua/ Lớp tang thương rơi rụng tựa hoa tàn, ngẫm thiên tạo cũng vui thay cảnh thú/ Cuộc Nam Bắc được chăng dường chớp giật, nghĩ thời cơ thêm ngán nỗi khuông phù". Nếu Nguyễn Huy Lượng bảo rằng dưới triều Tây Sơn thiên hạ đã yên, thì Phạm Thái lại chỉ ra những con sóng ngầm đang chực trồi lên cuốn phăng tất cả cơ đồ mà Nguyễn Huệ một tay gây dựng: "Đông châu mấy kẻ múa gươm trung, buồm cần vương quất ngược ngọn nam phong, thù khấu tặc chí còn chưa thỏa/ Bắc khổn những người đem việc nghĩa, cờ chính khí phất tàn lò hạ hỏa, nợ quân vương lòng chẳng ứng phu". Ông giả giọng tiên tri để bàn về vận mệnh của nhà Tây Sơn: "Thuở bán thiên dồn đến lại thêm phiền, Canh Thân ấy nghĩ còn bền tựa đá/ Quẻ lục hợp bói ra thì cũng phải, Nhâm Tuất kia âu hẳn nát ra tro". (Canh Thân (1800) là năm quân nhà Nguyễn ở Gia Định phản công mãnh liệt, Nguyễn và Tây Sơn đánh nhau to ở miền Trung. Nhâm Tuất (1802) là năm quân Nguyễn đại thắng, thu toàn bộ non sông về một mối). Có thể nói, đây là hai cái nhìn, hai lập trường đối nhau chan chát.
Và ở cuối bài "Chiến tụng" thì Phạm Thái đã không ngần ngại tuyên bố mục đích viết, đồng thời cũng là tuyên bố quan điểm chính trị của mình: "Giận vì thằng nỡ đặt Tụng Tây Hồ, bênh ngụy tặc bỏ quên thần đế thế/ Cho nên tớ phải họa thiên Chiến Tụng, nguyện ngô quân đem lại nếp hoàng đồ".
Về tác giả Nguyễn Huy Lượng, trong "Từ điển văn học, bộ mới", nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc cho biết: "Nguyễn Huy Lượng thi đậu Hương cống, tức Cử nhân. Dưới thời Lê - Trịnh ông được bổ làm Phụng nghi, một chức quan nhỏ ở bộ Lễ. Sau khi vua Quang Trung ra Bắc đại phá quân Thanh, ông ra cộng tác với nhà Tây Sơn, giữ chức Hữu Thị lang bộ Hộ (nên mới gọi là Hữu hộ Lượng).
1802 triều Tây Sơn sụp đổ, triều Nguyễn lên thay, Nguyễn Huy Lượng bị bắt trong khi quân đội Tây Sơn rút khỏi Bắc thành chạy lên phía bắc. Nguyễn Huy Lượng buộc phải nhận chức tri phủ Xuân Trường của nhà Nguyễn... Bài "Tụng Tây Hồ phú" viết vào mùa hè năm Tân Dậu (1801) trong dịp triều đình Nguyễn Quang Toản dời đô từ Phú Xuân ra Thăng Long và làm lễ tế trời đất ở Hồ Tây" (tr.1148- 1149). Về tác giả Phạm Thái, nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi cho biết: "Là con Trạch Trung hầu, một cựu thần của nhà Lê khởi binh chống Tây Sơn nhưng thất bại. Tiếp tục lý tưởng của cha, Phạm Thái bấy giờ mới 20 tuổi, đi giao du sơn thủy để kết giao với người cùng chí hướng.
Gặp Nguyễn Đoàn, một nhân vật chống đối Tây Sơn, ông viết bài "Quân yếu" (Cốt yếu của việc binh) bàn luận thế đánh và giữ trong tình hình ấy" (Sđd, tr.1368- 1369). Một vài thông tin như vậy là đủ để cắt nghĩa tại sao con mắt nhìn về cảnh Hồ Tây của hai tác giả lại đối nghịch nhau đến thế. Họ mượn việc tả Hồ Tây như một cái cớ để bộc lộ quan điểm, mục đích chính trị của mình. "Gặp thời thế thế thời phải thế", lịch sử - nhất là lịch sử của những giai đoạn xã hội đầy biến động phức tạp như cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX - có những bước đi ngoắt ngoéo và có những cách áp đặt riêng của nó trên từng cá nhân cụ thể, vì thế không nên đoan quyết một cách vội vã về sự đúng sai trong hành xử của tiền nhân, mà ở đây là Nguyễn Huy Lượng và Phạm Thái. Điều chúng ta có thể chắc chắn, ấy là cả hai bài phú đều xứng đáng được coi như những đỉnh cao của văn chương Nôm, những tuyệt phẩm về ngôn từ.
Mặt khác, nếu như người viết không nhầm, đây là trận "thi chiến" đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam: người sáng tác văn chương đã dùng chính tác phẩm văn chương (chứ không phải tác phẩm nghị luận) để đối mặt với nhau, tranh luận với nhau, bác bỏ nhau một cách quyết liệt.
Phải chờ đến gần hết thế kỷ XIX, trong bối cảnh thực dân Pháp đã chiếm gọn Nam Kỳ lục tỉnh, theo Tây hay chống Tây là vấn đề được đặt ra một cách sát ván với giới sỹ phu, thì sự "thi chiến" như vậy mới được tiếp tục bằng mười bài thơ trần tình của Tôn Thọ Tường và mười bài họa lại của Phan Văn Trị. Nhưng khi ấy thì văn chương trung đại Việt Nam đã đi đến cuối con đường của một giai đoạn lớn trong lịch sử
Cả hai bài phú đều xứng đáng được coi như những đỉnh cao của văn chương Nôm, những tuyệt phẩm về ngôn từ. Mặt khác, đây là trận “thi chiến” đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam.
Trong khoảng hai năm đầu tiên của thế kỷ XIX, với sự xuất hiện hai bài phú Nôm, Tụng Tây Hồ phú của Nguyễn Huy Lượng và Chiến tụng Tây Hồ phúcủa Phạm Thái, Hồ Tây và những khu vực phụ cận - một không gian văn hóa đặc trưng của Hà Nội - đã được vẽ lại bằng ngôn từ, và được vẽ lại theo những cái nhìn - phối cảnh rất đối nghịch.
Sở dĩ có thể nói đến chuyện “vẽ lại” ở đây, ấy bởi đặc điểm thể loại (thể phú) của hai tác phẩm mà ra. “Phú giả phô dã” - phú là để bày ra, phô ra, để tự sự, để miêu tả. Những tác phẩm phú (chữ Hán) nổi tiếng như Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, Chí Linh sơn phú của Nguyễn Trãi hay Trảm xà kiếm phú của Sử Hy Nhan là những ví dụ sáng giá cho khả năng tự sự và miêu tả của thể phú. Hai bài phú Nôm đang được nói đến cũng vậy: trùng trùng điệp điệp những miêu tả cảnh quan khu vực Tây Hồ, lớp gần lớp xa, liên miên như không dứt.
Trong mắt Nguyễn Huy Lượng, Tây Hồ là cả một quần thể di tích đẹp, có sức nhắc gợi quá khứ, khiến cho lịch sử và huyền thoại luôn đồng hiện với con người ngày nay: “Tòa thạch tháp, nọ nơi tiên để báu/ Chốn thổ đôi, kia chỗ Khách chôn bùa/ Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ/ Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa/ Kề bến nọ, quán Thiên Niên lớp lớp/ Cách ngàn kia, ghềnh Vạn Bảo nhấp nhô”, thì trong mắt Phạm Thái, quần thể di tích của Tây Hồ đã trở nên hoang tàn, đã tắt ánh hào quang huyền thoại, đã mất thiêng: “Tòa thạch tháp đã tản bình xá lỵ/ Đống thổ đôi đà nát dấu chôn bùa/ Lưới Mục Lang âu nát mất cả giềng, gian chẳng bắt nữa hoài công bắt hổ/ Gươm Trấn Vũ chỉ còn trơ những sống, giặc không giam mà còn sức giam rùa/ Thiên Niên nếu được lâu, sao quán nát?/ Vạn Bảo nào có báu, để ghềnh nhô?”.
Trong mắt Nguyễn Huy Lượng, Tây Hồ là vùng đất lành, nơi có thể thắp lên những tình cảm tôn giáo cao khiết, lại vừa là nơi cư dân tụ hội đông vui, làm ăn buôn bán sầm uất, mọi người sống một đời sống an bình no ấm: “Tòa Kim Liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in mùi Tịnh Phạn/ Hàng cổ thụ gió rung bóng lục, tràng Phụng Thiên nhân sẵn thú Nghi Vu/ Dấu Bố Cái rêu in nền phủ/ Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa/ Trông mơ màng dường Đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu lích chích/ Nghe phảng phất ngỡ Động Đào mái nọ, mấy tiếng gà trong trại gáy o o/ Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút/ Ghềnh nhật Chiêu sóng giật ì ồ/ Rập rềnh cuối bãi Đuôi Nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm/ Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng còn hé cửa tò vò”.
Trong mắt Phạm Thái, Tây Hồ là cả một nền cảnh cực kỳ lộn xộn chắp vá, đạo thì nực mùi trần mà trần thì lại đầy những tạp hình tạp âm tạp vị (không loại trừ vị của chất thải - niệu thỷ) khiến cho ai nấy đều ngao ngán: “Ngẫm tăng ni thơ thẩn khổ tu hành, anh áo vóc, chị mũ vàng, đỏng đảnh thế ở làm giông phạn vũ/ Xem đồng quán dở dang chiều lý thú, đứa quả đào, thằng khăn trắng, náo nức thay chạy đến quấy Nghi Vu/ Ông Đá dãi dầu hình tượng miếu/ Bà Đanh vắng ngắt tiếng chuông chùa/ Nhà tranh đua đều khấn Bụt cầu giời, đường Quan Thánh khéo lăng nhăng lít nhít/ Chợ xào xạc những buôn hùm bán quỷ, mái Trường Lương nghe lếu láo ỷ o/ Khói lò gạch thổi lưng trời ngùn ngụt/ Sông cánh hàn xô sườn đá ồ ồ/ Bãi Đuôi Nheo tanh ngắt giống tinh chiên, nước trong hờn vẻ nguyệt chẳng còn ưa, thuyền du tử lái quay ra cho chóng/ Hồ Cổ Ngựa thối hoăng mùi niệu thỷ, hoa thơm giận chiều xuân sao nỡ phụ, lều cư nhân gianh nát đã như vò”.
Trong mắt Nguyễn Huy Lượng, không phải tự nhiên mà cảnh Tây Hồ lại đẹp đẽ nhường ấy. Đã có lúc tất cả cảnh trí ở đây đều hoang lương quạnh quẽ. Đó là giai đoạn kéo dài sáu năm trời: từ năm Canh Tý (1780), năm Trịnh Khải âm mưu đảo chính, đến năm Bính Ngọ (1786), năm Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt Trịnh. Trật tự chỉ được vãn hồi kể từ khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, tiến quân ra Bắc lần thứ hai, đánh tan đạo quân xâm lược của tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị rồi chính thức đặt sức mạnh vương quyền của mình trên đất Bắc Hà. Nguyễn Huy Lượng không tiếc lời để tả những thay đổi tốt đẹp lớn lao mà sự có mặt của triều Tây Sơn đã mang tới cho cảnh Tây Hồ: “Tới Mậu Thân (1788) từ rỡ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch/ Qua Canh Tuất (1790) lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức triêm nhu/ Vũng trì chiểu nước dần dần lặng/ Nơi đình đài hoa phới phới đua/ Chốn bảy cây còn mấy gốc lăng vân, chẳng tùng bách cũng khoe hình thương lão/ Nơi một bến đã đông đoàn hý thủy, tới uyên ương đều thỏa tính trầm phù/ Vẻ hoa thạch châu thêu gấm dệt/ Tiếng trùng cầm ngọc gõ vàng khua”. Ông cũng không quên ca ngợi, một cách trực tiếp, ơn đức của nhà Tây Sơn, và đặc biệt là ông nhấn mạnh vào phẩm chất khoan dung, sự độ lượng của tân triều trước những kẻ bắt chước Bá Di, Thúc Tề, Hứa Do, Sào Phủ bất hợp tác với chính quyền: “Bãi cỏ non, trâu thả ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi/ Làn nước phẳng, kình trầm ngạc lặn, ao Hoàng nào mấy trẻ reo hò/ Mặt đất đùn này thóc này rau, dầu lòng Cô Trúc/ làn nước chảy nọ dòng nọ bến, mặc chí Sào Do”.
Trái lại, trong mắt Phạm Thái, sự có mặt của nhà Tây Sơn mang đến một kết quả khác hẳn. Và bức tranh ông phác ra đã vượt quá khung khổ của cảnh trí Tây Hồ: “Quỷ dạ xoa quấy Bụt xuống chi đây, người bách nghệ đến đâu đều khổ não/ Thần hạn bạt nát ai ra đấy tá, kẻ tam nông mong chẳng được tô nhu/ Cơn binh hỏa trải mấy tao dời đổi/ Buổi phong trần thêm mấy dịp tranh đua/ Lớp tang thương rơi rụng tựa hoa tàn, ngẫm thiên tạo cũng vui thay cảnh thú/ Cuộc Nam Bắc được chăng dường chớp giật, nghĩ thời cơ thêm ngán nỗi khuông phù”. Nếu Nguyễn Huy Lượng bảo rằng dưới triều Tây Sơn thiên hạ đã yên, thì Phạm Thái lại chỉ ra những con sóng ngầm đang chực trồi lên cuốn phăng tất cả cơ đồ mà Nguyễn Huệ một tay gây dựng: “Đông châu mấy kẻ múa gươm trung, buồm cần vương quất ngược ngọn nam phong, thù khấu tặc chí còn chưa thỏa/ Bắc khổn những người đem việc nghĩa, cờ chính khí phất tàn lò hạ hỏa, nợ quân vương lòng chẳng ứng phu”. Ông “giả giọng tiên tri” để bàn về vận mệnh của nhà Tây Sơn: “Thuở bán thiên dồn đến lại thêm phiền, Canh Thân ấy nghĩ còn bền tựa đá/ Quẻ lục hợp bói ra thì cũng phải, Nhâm Tuất kia âu hẳn nát ra tro”. (Canh Thân (1800) là năm quân nhà Nguyễn ở Gia Định phản công mãnh liệt, Nguyễn và Tây Sơn đánh nhau to ở miền Trung. Nhâm Tuất (1802) là năm quân Nguyễn đại thắng, thu toàn bộ non sông về một mối). Có thể nói, đây là hai cái nhìn, hai lập trường đối nhau chan chát. Và ở cuối bài Chiến tụng thì Phạm Thái đã không ngần ngại tuyên bố mục đích viết, đồng thời cũng là tuyên bố quan điểm chính trị của mình: “Giận vì thằng nỡ đặt Tụng Tây Hồ, bênh ngụy tặc bỏ quên thần đế thế/ Cho nên tớ phải họa thiên Chiến Tụng, nguyện ngô quân đem lại nếp hoàng đồ”.
Về tác giả Nguyễn Huy Lượng, trong Từ điển văn học, bộ mới, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc cho biết: “Nguyễn Huy Lượng thi đậu Hương cống, tức Cử nhân. Dưới thời Lê - Trịnh ông được bổ làm Phụng nghi, một chức quan nhỏ ở bộ Lễ. Sau khi vua Quang Trung ra Bắc đại phá quân Thanh, ông ra cộng tác với nhà Tây Sơn, giữ chức Hữu Thị lang bộ Hộ (nên mới gọi là Hữu hộ Lượng). 1802 triều Tây Sơn sụp đổ, triều Nguyễn lên thay, Nguyễn Huy Lượng bị bắt trong khi quân đội Tây Sơn rút khỏi Bắc thành chạy lên phía bắc. Nguyễn Huy Lượng buộc phải nhận chức tri phủ Xuân Trường của nhà Nguyễn...
Bài Tụng Tây Hồ phú viết vào mùa hè năm Tân Dậu (1801) trong dịp triều đình Nguyễn Quang Toản dời đô từ Phú Xuân ra Thăng Long và làm lễ tế trời đất ở Hồ Tây” (tr.1148- 1149). Về tác giả Phạm Thái, nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi cho biết: “Là con Trạch Trung hầu, một cựu thần của nhà Lê khởi binh chống Tây Sơn nhưng thất bại. Tiếp tục lý tưởng của cha, Phạm Thái bấy giờ mới 20 tuổi, đi giao du sơn thủy để kết giao với người cùng chí hướng. Gặp Nguyễn Đoàn, một nhân vật chống đối Tây Sơn, ông viết bài Quân yếu (Cốt yếu của việc binh) bàn luận thế đánh và giữ trong tình hình ấy”.
Một vài thông tin như vậy là đủ để cắt nghĩa tại sao con mắt nhìn về cảnh Hồ Tây của hai tác giả lại đối nghịch nhau đến thế. Họ “mượn” việc tả Hồ Tây như một cái cớ để bộc lộ quan điểm, mục đích chính trị của mình. “Gặp thời thế thế thời phải thế”, lịch sử - nhất là lịch sử của những giai đoạn xã hội đầy biến động phức tạp như cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX - có những bước đi ngoắt ngoéo và có những cách áp đặt riêng của nó trên từng cá nhân cụ thể, vì thế không nên đoan quyết một cách vội vã về sự đúng sai trong hành xử của tiền nhân, mà ở đây là Nguyễn Huy Lượng và Phạm Thái. Điều chúng ta có thể chắc chắn, ấy là cả hai bài phú đều xứng đáng được coi như những đỉnh cao của văn chương Nôm, những tuyệt phẩm về ngôn từ. Mặt khác, nếu như người viết không nhầm, đây là trận “thi chiến” đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam: người sáng tác văn chương đã dùng chính tác phẩm văn chương (chứ không phải tác phẩm nghị luận) để đối mặt với nhau, tranh luận với nhau, bác bỏ nhau một cách quyết liệt. Phải chờ đến gần hết thế kỷ XIX, trong bối cảnh thực dân Pháp đã chiếm gọn Nam Kỳ lục tỉnh, “theo Tây” hay “chống Tây” là vấn đề được đặt ra một cách “sát ván” với giới sĩ phu, thì sự “thi chiến” như vậy mới được tiếp tục bằng mười bài thơ trần tình của Tôn Thọ Tường và mười bài họa lại của Phan Văn Trị. Nhưng khi ấy thì văn chương trung đại Việt Nam đã đi đến cuối con đường của một “giai đoạn lớn” trong lịch sử.

Thưởng thức danh tác “Tụng Tây Hồ phú” của Nguyễn Huy Lượng

“Có thể nói, trước và sau Nguyễn Huy Lượng, chưa hề có một tác phẩm nào viết về non sông đất nước Thăng Long Hà Nội hay đến thế, đẹp đến thế. Chỉ với một danh tác ấy cũng đủ xếp Nguyễn Huy Lượng vào hàng những văn nghệ sĩ tài hoa bậc nhất Thăng Long” (1)

“Áng văn Nôm trác tuyệt tân kỳ, dân Hà thành hồi ấy gọi là “Phú ông Lựợng” trong khi đổ xô đi tìm mua bản chép tay này… Người ta mua giấy mực về chép lại khiến cho giá giấy phường Hàng Giấy, Hàng Gai vọt hẳn lên. Nhớ câu chuyện ở Trung Quốc đời Tần, có Tả Tư viết bài Tam đô phú rất nổi tiếng. Người ở kinh đô Lạc Dương tranh nhau chép bài phú này, khiến giấy trở nên khan hiếm và giá  đắt vọt lên (2). (Bản thân chúng tôi cũng được nếm trải tình hình tương tự vào năm 1987, 88 khi báo Văn nghệ Hội nhà văn đang tưng bừng đăng sáng tác ký, truyện ngắn mở đầu cao trào Đổi mới; mỗi sáng thứ Bảy chúng tôi chạy ra sạp báo trên phố Hà Nội mua tờ Văn nghệ 16 trang, tờ báo bán chạy nhất thủ đô những năm ấy, nhưng thức dậy muộn nên chỉ mua được những bản photo mờ mờ từ sạp báo hoặc từ tay những em bé Hà Nội cầm từng xấp đi rao trên hè phố lá sấu lá bàng lác đác…)

Tụng Tây Hồ phú, một áng văn khiến người đọc say mê, rù rì đọc từng chữ từng câu. Cái dư âm của nó quấn quýt mãi không rời. Những từ láy lần đầu phát ra từ bài văn Nguyễn Huy Lượng và chẳng bao giờ lặp lại nữa. Nghĩ đến văn chương vùng đất Thăng Long, người ta nhớ ngay đến bài văn ấy, tác giả ấy. Và ngẫm suy về bao điều khác nữa…Một vài câu văn, ý thơ được nhớ mãi là một tiêu chuẩn để đánh giá địa vị một áng văn.

Sống trong năm kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long - Hà Nội, người viết giở lại Tụng Tây Hồ phú mà thưởng thức. Lại tình cờ đọc thấy trên báo mạng một bài nghiên cứu của tác giả Hoài Nam về Nguyễn Huy Lựợng nên băn khoăn muốn tỏ bày ý kiến. Trước hết người viết trình bày mấy điều tâm đắc tản mạn về bài phú.



1. Bài phú của cảnh vật thanh bình, yên ả, nhịp sống ung dung
 Phần đầu Tụng Tây Hồ phú là một cái nhìn bao quát cảnh thiên nhiên đa sắc Hồ Tây:
"Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh,
 ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo
 Hình lượn lượn uốn vòng câu bạc,
 tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò
 Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc
           Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa"

Sau cảnh đẹp thiên nhiên là cảnh làm ăn sinh sống nhộn nhịp của dân chúng ven hồ. Một số phường nghề Thăng Long được miêu tả quanh vùng Hồ Tây, có lẽ là những phường nghề được hình thành sớm nhất Việt Nam. Phường nghề nói lên một cách làm ăn buôn bán hòa hợp như tục ngữ nói “buôn có bạn, bán có phường”. Làm ăn thương mại họp lại bên nhau, cạnh tranh lành mạnh, ganh đua chất lượng. Phường nghề và chợ búa là một nét văn hoá cơ bản của Thăng Long Hà Nội:

Vầy cuộc ẩn, mọi nghề chẳng thiếu,
Muợn thú vui bốn bạn gồm no
…Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút,
…Thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm,
Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.

Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi canh ghẹo hai phường dệt gấm
Sen vũng nọ nẩy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò. 
Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát,
Người Hy Hoàng song bắc ngáy phi pho.

Bến giặt tơ người vốc nước còn khuya, gương thiềm đựng trong tay lóng lánh,
…Bãi cỏ non trâu thả, ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi;

2. Thú giải trí thanh lịch của tao nhân mặc khách Hà thành

 Đọc bài phú, ta thấy những thú vui cầm kỳ thi tửu, ung dung ngoạn cảnh, thưởng trăng… được miêu tả rất sinh động. Hình ảnh tao nhân mặc khách thấp thoáng:

Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn,
Khách thâu nhàn lai láng từng khu. 
Ngang thành thị, ghé yên hà một thú,
Dọc phố phường, tung phong nguyệt hai kho.
Cầm ve gẩy lầu thư ánh ỏi…
Cảnh Khán Sơn  chưa gác cột cờ, lòng thơ đã bôi hồi ban lãnh thỏ
Làng Võng Thị còn đông tiệc rượu, tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô. 
Trộm nhớ thiên bát vịnh du hồ, trong tỷ hứng cũng ngụ lời quy phúng,
Lại nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm thường thỏa ý giao phu. 
Tòa đá nọ hãi ghi câu canh họa,
Dòng nước kia dường nổi chén tạc thù .

Thú cao lưu chếch mác thế cờ, người nhạo thủy ôm cầm khi rạng quế,
Màu yên cảnh bâng khuâng hồn rượu, khách đăng đài gác bút buổi bay ngô

Áng năm mây bày ngọc bạch đôi hàng, thảo mộc hãi ca công Thang, Vũ;
Vang chín bệ nổi tiêu thiều mấy khúc, điểu thú đều vũ đức Đường, Ngu. 
3. Nơi đây lịch sử và huyền thoại sống cùng người đương thời.

Trong mắt thi nhân Nguyễn Huy Lượng, Tây Hồ là một nơi trú ngụ của quá khứ:

Trước Bạch Hồ vào ở đó làm hang, Long vương trổ nên vùng đại trạch,
Sau Kim Ngưu do vào đây hóa vực, Cao vương đào chặn mạch hoàng đô 

Tòa thạch tháp, nọ nơi tiên để báu
 Chốn thổ đôi, kia chỗ Khách chôn bùa
 Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời,
 tay lưới phép còn ghi công bắt hổ…
Dấu Bố Cái rêu in nền phủ …

Trải Trần trước đã nhiều phen xe ngựa,
Tới Lê sau càng lắm độ tán dù. 
Trong bài phú, những dấu ấn lịch sử từ thời Bắc thuộc như Cao Biền, Phùng Hưng qua các triều đại lẫy lừng Lý, Trần, Lê, cùng với huyền thoại đều vang lên trong ký ức thi nhân và được vẽ ra trước mắt.

Và cảnh hiện tại Thăng Long tươi sáng với triều đại Tây Sơn được ước lệ:

Tới Mậu Thân từ rõ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch;
Qua Canh Tuất  lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức triêm nhu
Vũng trì chiểu nước dần dần lặng;
Nơi đình đài hoa phới phới đua. 
4. Hồ Tây Thăng Long nơi Phật giáo và Đạo giáo tồn tại hòa bình
   
Thăng Long Hà Nội là nơi chung sống lâu đời của các tôn giáo, tín ngưỡng, suốt nghìn năm lịch sử chưa bao giờ xảy ra các xung đột tôn giáo. Chỉ vài nét phác họa, bài phú cho chúng ta cảm giác đó. Quán Trấn Vũ thờ Đạo thần tiên ở gần bên chùa Trấn Quốc của đạo Phật. Nhà thơ chẳng cần phải thuyết trình giảng giải.

Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển…
Tòa Kim Liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh phạn
… Mõ cuốc khuya án kệ rì rù. 
Nơi phạn vũ để che màu sảng lãng, dọc ngang treo mắc võng tri thù
Sen chốn chốn đã bay về Tây Vực, vũng du ngư nguyệt hãy tối mò
Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa (…)
Trông mơ màng dường đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu chích chích,
Nghe phảng phất ngỡ động Đào mai nọ, mấy tiếng gà trong trại gáy o o .

Đạo Phật dành cho quảng đại chúng sinh, cũng cho cả lũ quân xâm lược Mãn Thanh bỏ Thăng Long mà chạy:
Cây quán kia còn đứng dậy thần uy, đoàn Mán tới dám khoe lời “Tây hữu”
Sen chùa nọ lại bay về Phật cảnh, lũ Ngô về từng niệm chữ Nam mô.

Một ngôi cổ miếu và đám cỏ mọc tần ngần cũng góp phần làm nên cảnh yên bình của Thăng Long Hà Nội:
Chòm cỏ mọc tần vần bên nọ miếu, trống thôi hoa rẽ khóm huân do


5. Ngôn từ nghệ thuật trong Tụng Tây Hồ phú

Phàm là nhà văn ai cũng ấp ủ khát vọng sáng tạo từ ngữ, góp phần làm giàu cho tài sản tiếng Việt vô giá của dân tộc… Nhiều cây bút cả đời không để lại được cho hậu thế một bài, một câu, một từ ngữ khả dĩ in đậm trong người đọc (mặc dù không ít trong số đó được tặng những giải thưởng lớn !). Tây Hồ phú bộc lộ một tài năng sáng tạo từ ngữ mới mẻ làm giàu cho quốc văn và cho tiếng Việt. Bài phú là một bản hợp xướng ngữ âm tiếng Việt giàu hình ảnh, âm sắc và gợi cảm mà riêng Hán ngữ khó đáp ứng. Trước hết ta thấy khối lượng nhiều từ láy sinh động là một biểu hiện nghệ thuật rõ ràng.

 5.1 Thi pháp từ láy đặc sắc trong bài phú

Hầu như tất cả câu văn miêu tả trong bài phú đều dùng từ láy.
Tây Hồ phú chứa đựng một hệ thống từ láy với ý thức sáng tạo nghệ thuật rõ rệt. Từ láy tiếng Việt tượng hình và tượng thanh sinh động vốn đã rất phong phú, thừa hưởng bảng từ láy tiếng Việt ấy, tác giả vẫn kỳ công mở rộng vốn từ này:

Từ láy quen thuộc
Từ láy trong bài phú
leo lẻo
loảng choảng    
inh ỏi
rù rì
lởm chởm
phơi phới
ì ầm……
lẻo lẻo
chểnh choảng
ánh ỏi
rì rù
chởm chởm
phới phới
ì ồ…

Các từ láy trong bài Phú có tính chất chung là sức gợi tả mạnh mẽ hơn, tạo nhịp điệu thung dung, giàu cảm xúc hơn - một đóng góp của Nguyễn Huy Lượng.

Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo,
Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ì ồ (…)
Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi canh ghẹo hai phường dệt gấm
Sen vũng nọ nẩy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò (…)
Cầm ve gẩy lầu thư ánh ỏi,
Mõ cuốc khuya án kệ rì rù.
Trông mơ màng dường đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu chích chích, 
Nghe xóm nọ rù rì ve nhặng ,
Ngắm ghềnh kia thấp thoáng trai cò. 
Trước cố cung treo nửa mảnh gương loan, vừng trăng he hé,
Sau cổ tự gửi mấy phong da ngựa, đám cỏ lù rù. 
Vũng trì chiểu nước dần dần lặng;
Nơi đình đài hoa phới phới đua.

Trên thành trĩ đá xây chởm chởm, bến cũ gọi đò

 5.2 Tụng Tây Hồ phú là bài phú kinh điển

Thể phú cổ điển phát sinh vào đời nhà Hán sau khi họ Lưu thống nhất giang sơn với nhu cầu ca tụng khẳng định. Phú bày tỏ và ca ngợi những thắng cảnh thiên nhiên kỳ vĩ tươi đẹp của tạo hoá, phú trầm trồ chiêm ngưỡng tài khéo của con người làm nên những công trình kiến trúc bổ túc cho thiên nhiên đẹp hơn, phú ca ngợi danh nhân lập công tích vĩ đại dựng nước và giữ nước... Từ đó phú sinh ra một nghệ thuật tương thích, ta gọi là thi pháp thể loại. Trước hết đó là cảm hứng chủ đạo ngợi ca, tự hào. Đối tượng được miêu tả mang tính trác tuyệt, cao cả. Ưa dùng biện pháp nghệ thuật khoa trương, đôi khi ước lệ trên một cơ sở hiện thực. Nhịp điệu tạo ra do cặp câu đối ngẫu biểu hiện được sự thung dung, thỏa mãn, hài lòng; lại tạo ra cảm giác về sự bền vững, vĩnh hằng. Hình dung từ (tính từ) và trạng từ được sử dụng bồi tiếp, miên man.

Nay Nguyễn Huy Lượng giãi bày hứng thú ca tụng vẻ đẹp Tây Hồ như một quần thể hài hòa giữa cảnh đẹp thiên nhiên và những công trình lao động lâu dài bền bỉ của nhân dân lao động, đồng thời cũng khẳng định công tích triều đại Tây Sơn.

Nguyễn Huy Lượng nồng nhiệt viết bài phú “Tụng Tây Hồ” còn nhằm biểu lộ tình yêu hòa bình, đề cao vẻ đẹp Tây Hồ, ghi lại được sắc đẹp nổi bật của một phần thành Thăng Long thuở ấy.

Đó là những nguyên do dẫn đến Tụng Tây Hồ phú. Bài phú ông Lượng là bài phú kinh điển mẫu mực.

5.3 Điển cố Trung Hoa và Việt Nam được đan xen trong bài phú theo yêu cầu của thi pháp trung đại nhưng vẫn thiên về lịch sử, truyền thuyết Việt Nam.

Bài phú dùng tới 92 lần điển tích, điển cố, từ cổ, trong đó chỉ có 27 điển tích điển cố Trung Hoa, còn lại là điển tích và từ cổ Việt Nam. Dùng điển cố Trung Hoa là một tập quán văn chương trung đại, không phải phàn nàn nữa, nhưng chúng tôi nhận thấy tác giả còn có biện pháp hài hước trong việc dùng điển cố:

Mảnh áo tơi lốp xốp trong mưa, ca Thanh Thảo quyến đàn trâu gã Nịnh
Con thuyền trúc lân la trước gió, khúc Thương Lương đưa gánh củi chàng Chu 

Câu trên chỉ miêu tả một anh chăn trâu quanh quẩn bên bờ Hồ Tây mà phải mượn tới nhân vật Nịnh Tích thời Chiến Quốc (lúc hàn vi đi chăn trâu, sau làm quan nước Tề). Câu dưới muốn tả một bác tiều phu loanh quanh kiếm củi ven Hồ mà phải mượn đến thi hào Khuất Nguyên và câu ca nước Sở bên sông Thương Lương thời Đông Chu (Khuất Nguyên nghe người làng chài nước Sở đọc “nước sông Thương Lương trong thì ta giặt giải mũ, nước sông Thương Lương đục thì ta rửa chân”). Điển cố này còn ghép với sự tích chàng Chu Mãi Thần, người đời Hán, làm nghề kiếm củi, sau làm quan lớn…Ở đây, sự cầu kỳ dùng điển cố hóa ra chỉ là một kiểu hài hước để miêu tả con người bình thường quanh Hồ Tây của  Nguyễn Huy Lượng. Cách cầu kỳ hóa này trái với cách dùng điển cố thông thường mặc nhiên ca tụng các nhân vật chứa trong điển tích điển cố, sau mới miêu tả đối tượng chính của phú như là sự tiếp nối noi gương điển cố. Phú ông Lượng dùng biện pháp mựợn cái nổi tiếng đời xưa để tả cái bình thường thời nay .

5.4 Cấu trúc hồ: Những câu văn miêu tả Tây Hồ nghe có vẻ lộn xộn, quanh quẩn, lặp lại, kì thực là một cấu trúc vòng tròn,“cấu trúc hồ” hay cấu trúc mô phỏng hình dáng bờ hồ. “Cấu trúc hồ” đóng vai trò chủ đạo của bài phú.
Bên cạnh cấu trúc chính là “hồ”, bài phú còn có cấu trúc phụ là sự tương phản giữa hai chế độ xã hội cũ - mới (Lê mạt trước Tây Sơn và sau Tây Sơn) và hai phần phụ “Nay mừng…”, “Tôi nay…” ở phấn cuối bài phú.

5.5 Nhịp điệu biền ngẫu góp phần biểu lộ lòng yêu hòa bình của  người Thăng Long. Nhịp điệu ung dung nhàn tản, vương vất chất men say của người ngoạn cảnh, nhịp điệu cân đối hài hòa trong tiếng Việt sáu thanh thể hiện triết lý âm dương giản dị. Sự phối hợp từ Hán Việt và thuần Việt nhịp nhàng uyển chuyển, tận dụng khả năng biểu hiệu của Hán ngữ (nghiêm trang cổ kính) và Việt ngữ (mộc mạc dân giã).

Thật hiếm có một bài phú với cả trăm câu đối ngẫu mà đều chỉnh tề hoàn hảo, khó tìm thấy được những câu thất luật.

6. Đặt bên nhau hai bài phú Tây Hồ
Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc viết: “Phạm Thái còn để lại một bài phú mang tênChiến tụng Tây Hồ phú mà nói theo một nhà nghiên cứu hiện đại, từng làm sửng sốt giới trí thức và văn sĩ Hà thành đương thời ! …Người ta khi ấy đã “sửng sốt” chỉ vì “trước hết ở thái độ cực đoan của người cầm bút” mà thôi. Bởi đấy là khi ông “cố sống cố chết”, “cãi chày cãi cối” mà đánh (chiến) bài Tụng Tây Hồ phú của Nguyễn Huy Lượng ca ngợi triều Tây Sơn. Có thể quên đi Chiến tụng Tây Hồ phú của Phạm Thái…”, …“Không phải Phạm Thái không thấy giá trị của bài tụng. Qua lời tiểu dẫn do chính ông viết, ta thấy ban đầu thoạt đọc, ông cũng lấy làm hay, hỏi ngay: “Ai làm bài ấy mà hay thế”? …“Bạn rằng: Chương Lĩnh hầu Hữu hộ Lượng làm” thì ông hay đổi thái độ: “Ta rằng: Chao ôi! Hữu hộ Lượng à! Xưa hắn làm tôi triều Lê, nay ra làm nguỵ lại còn tụng Tây Hồ mà chẳng thẹn mặt... Nay nhân bỉ kẻ làm bài tụng, ta cũng làm bài Chiến tụng để góp chút trò cười với đời” (3)

GS Thanh Lãng nhận xét bài Chiến tụng Tây Hồ phú này “thực có tính cách kỳ khu quá đáng. Tác giả đã lạm dụng những kinh, những điển, phải là người thông thuộc sử sách Tàu mới hiểu nổi. Lời văn chứa đầy nỗi căm phẫn, hậm hực đối với nhà cầm quyền đương thời (Tây Sơn), biểu lộ rõ ràng lòng thương tiếc nhà Lê (4)

GS Nguyễn Lộc nhận xét “Chiến tụng Tây Hồ phú làm ra dưới thời Nguyễn Quang Toản, Bùi Đắc Tuyên là thời kỳ nhà Tây Sơn đã đi sâu vào con đường phong kiến hóa, có thể Phạm Thái đã ghi lại được một số nét hiện thực nào đó của xã hội đương thời. Nhưng những nét hiện thực ấy trong bài phú không có giá trị độc lập của nó nữa vì tác giả dùng nó để phục vụ cho mục đích đen tối của mình. Vì vậy mà bài phú không có giá trị gì (5)

Với một cách nhìn mới lạ “hiện đại”, nhà nghiên cứu  Hoài Nam nhận định trong bài“Hồ Tây và một trận thi chiến trong lịch sử” (6)

“.. đây là trận "thi chiến" đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam: người sáng tác văn chương đã dùng chính tác phẩm văn chương (chứ không phải tác phẩm nghị luận) để đối mặt với nhau, tranh luận với nhau, bác bỏ nhau một cách quyết liệt.
“…Một vài thông tin như vậy là đủ để cắt nghĩa tại sao con mắt nhìn về cảnh Hồ Tây của hai tác giả lại đối nghịch nhau đến thế. Họ mượn việc tả Hồ Tây như một cái cớ để bộc lộ quan điểm, mục đích chính trị của mình. "Gặp thời thế thế thời phải thế", lịch sử - nhất là lịch sử của những giai đoạn xã hội đầy biến động phức tạp như cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX - có những bước đi ngoắt ngoéo và có những cách áp đặt riêng của nó trên từng cá nhân cụ thể, vì thế không nên đoan quyết một cách vội vã về sự đúng sai trong hành xử của tiền nhân, mà ở đây là Nguyễn Huy Lượng và Phạm Thái. Điều chúng ta có thể chắc chắn, ấy là cả hai bài phú đều xứng đáng được coi như những đỉnh cao của văn chương Nôm, những tuyệt phẩm về ngôn từ”.

Nhân đây tôi xin trình bày mấy ý kiến khác với nhà nghiên cứu Hoài  Nam.

Tác giả Hoài Nam gọi hai bài phú là “một trận thi chiến”, tôi e rằng chưa hẳn đúng. Bởi vì ông Lượng không hề đối đáp lại (thời ấy không có diễn đàn tranh luận như hơn một thế kỷ sau). Bài phú ông Lượng viết ra và truyền bá trước, Phạm Thái phê phán bằng một bài “phú” và truyền tay sau. Không hề có tình trạng “đối mặt với nhau, tranh luận với nhau, bác bỏ nhau một cách quyết liệt”. Chỉ có chuyện người đọc Hà thành “đổ xô đi tìm mua bản chép tay bài phú ông Lượng” mà thôi (2). Nếu có tranh luận về bài phú thì phải hơn trăm năm sau mới có.

Tác giả Hoài Nam lại viết: “…hai tác giả lại đối nghịch nhau đến thế. Họ mượn việc tả Hồ Tây như một cái cớ để bộc lộ quan điểm, mục đích chính trị của mình”.

Chúng tôi thấy nhận xét trên chỉ đúng với Phạm Thái, nói về cả hai người thì e rằng sai sự thật. Nguyễn Huy Lượng không hề mượn Hồ Tây “như một cái cớ”. Hồ Tây chính là mục đích của bài phú kết hợp với lệnh viết bài của nhà vua.

Nhà nghiên cứu Hoài Nam khuyên bảo rằng “…không nên đoan quyết một cách vội vã về sự đúng sai trong hành xử của tiền nhân”.

Nếu chúng ta vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể thì có thể khẳng định được “sự đúng sai của tiền nhân” chứ không đến nỗi “ba phải” về quan điểm lịch sử. Phong trào Tây Sơn đã là một trang sử hào hùng sáng chói của dân tộc cuối thế kỉ XIX, với những thành tựu đối nội, đối ngoại rõ ràng, vậy chúng ta còn gì băn khoăn về thái độ Nguyễn Huy Lượng ?!

Tác giả Hoài Nam lại viết: “Điều chúng ta có thể chắc chắn, ấy là cả hai bài phú đều xứng đáng được coi như những đỉnh cao của văn chương Nôm, những tuyệt phẩm về ngôn từ”.

Bài Phú của Nguyễn Huy Lượng là bài xướng, bộc lộ công phu tạo dựng tứ thơ tài hoa độc đáo, vô tiền khoáng hậu. Bài “họa” của Phạm Thái chỉ việc dựa theo bài xướng và “nói ngược lại” cho dù nói hay nói khéo. Như vậy, thứ bậc của hai bài đã rõ ràng, sao nhà nghiên cứu có thể đánh đồng hai bài như thế ! Nghệ thuật coi trọng nhất sự sáng tạo, như nhà văn Nam Cao tâm đắc “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (truyện ngắn Đời thừa).

Xét cho cùng “Chiến tụng Tây Hồ phú” của Phạm Thái cũng là một “Tây Hồ phú”. Chỉ có điều, nó không phải phú cổ điển mà thuộc loại phú trào phúng. Như trên (4.2) chúng tôi đã trình bày sơ bộ về thi pháp phú cổ điển, thì phú trào phúng của Phạm Thái đã phải mượn hoặc “nhại thi pháp phú cổ điển”, áp đặt gượng ép, nên khó có thể đạt giá trị sáng tạo nghệ thuật.

Dù sao “Chiến tụng Tây Hồ phú” của Phạm Thái cũng có một vai trò. Bài phú “họa” nhằm phản bác Tụng Tây Hồ phú, vô hình trung lại tôn thêm vẻ rực rỡ của bài phú “xướng”.

Ta có thể nói, bài phú Phạm Thái cũng đã góp phần gia tăng sinh hoạt văn nghệ được tưng bừng hơn, ghi dấu thêm một khuynh hướng tư tưởng và sáng tác văn chương phong phú của thi đàn Thăng Long, báo hiệu những cuộc bút chiến thú vị sẽ diễn ra trên đất Hà Nội hơn một thế kỉ sau.

Một áng văn trước hết ghi dấu ấn lịch sử tâm hồn nghệ sĩ, nếu lại ghi được dấu tích một giai đoạn lịch sử dân tộc thì càng thêm quí giá. Tụng Tây Hồ phú cũng góp phần ghi lại được một trang lịch sử bi đát và hào hùng của dân tộc- giai đoạn Lê mạt và phong trào Tây Sơn với võ công lừng lẫy của hoàng đế Quang Trung. Có thể, trong tâm lý sáng tác của thi nhân Nguyễn Huy Lượng trước khi nhận được lệnh viết bài phú và bài thất ngôn bát cú dâng hoàng đế, tứ thơ Tụng Tây Hồ đã hoài thai từ lâu trong tâm trí, trong mỹ cảm của tác giả rồi, nay gặp cơ hội khơi nguồn thì bài phú mở mạch. Cảm hứng thi sĩ Nguyễn Huy Lượng bật lên khi được lệnh viết bài Phú sau một thời gian ấp ủ ý tứ, không đơn thuần là công việc một quan chức chấp hành lệnh trên (Nhớ chuyện xưa Tào Thực làm bài thơ Thất bộ thi chẳng phải đọc được ngay sau khi Tào Phi ra lệnh, thực ra Tào Thực đã ấp ủ ý thơ từ lâu về cái tình huynh đệ, thói đố kỵ của ông anh).

Chúng ta từng biết có những bài văn hô khẩu hiệu, tuyên truyền thô thiển, cả những bài “bút chiến” theo lệnh trên không ít trong suốt mấy chục năm qua, người đọc dễ nhận thấy giá trị nhất thời của nó, sớm thì ngay sau 1975, muộn thì chục năm sau người đọc cũng lãng quên… Điều này đã không xảy ra với Tụng Tây Hồ phú, tác phẩm coi là viết theo “lệnh” mà hơn 200 năm trôi qua, càng đọc càng thấy nhiều ý vị…Không phải ngẫu nhiên người Thăng Long- Hà Nội thường gọi bài phú này là “Phong cảnh Tây Hồ”, cái tựa đề đã nói lên nội dung chính của bài phú.

Trong lịch sử văn học, bài phú có vị trí riêng, khác với thi, từ. Văn chương cổ điển có hàng trăm bài thơ, từ đặc sắc, còn những bài phú nổi tiếng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Trước bài phú ông Lượng, chúng ta mới có Chí Linh sơn phú (Nguyễn Trãi), Bạch đằng giang phú (Trương Hán Siêu), "Trảm xà kiếm phú" (Sử Hy Nhan)… Về sau xuất hiện những bài “phú” phá cách thiên về trào phúng, tự trào (sáng tác kiểu ăn theo, tương tự ngày nay gọi là kiểu hát “xuyên tạc, thay lời” mang tính dân gian) chỉ có thể đọc mà cười chơi khi trà dư tửu hậu, quyết không thể kể vào phú cổ điển được.

Thực không dễ dàng cho một nhà cầm quyền bất kể thời nào có thể ra lệnh cho văn nghệ sĩ Hà Nội viết văn trái với lương tri, cảm hứng của họ. Nguyễn Huy Lượng tiêu biểu cho một nét tính cách văn thi sĩ Hà thành cầm cây bút thích vẽ cái đẹp, rất vững vàng bản lĩnh khi ứng phó các vấn đề phức tạp. Khi không tiện viết văn bản thì họ viết bài truyền khẩu, sáng tác những truyện tiếu lâm dí dỏm thông minh, dù sớm hay muộn nhất định họ phải tuyên ngôn cho được, bày tỏ tâm tình cho được (Chủ đề này đòi hỏi một công trình nghiên cứu rất công phu)

Người ta gọi bài phú ông Lượng là tác phẩm văn chương đầu tiên miêu tả Hồ Tây, bức tranh phác họa đầu tiên của Hồ Tây, đúng ra là nhiều bức họa trùng trùng điệp điệp, hơn thế nữa, có thể ví với một cuốn “video ngôn từ” sinh động đầu tiên về phong cảnh Hồ Tây. Bài phú ông Lượng chính là tác phẩm đột phá, gợi hứng cho đề tài bày tỏ vẻ đẹp của Thăng Long - Hà Nội trường tồn không bao giờ cạn. Từ bấy đến nay đã có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật với mọi loại hình, chất liệu, hiện thực và lãng mạn, càng ngày càng nhiều tác phẩm đương đại viết về sóng nước Hồ Tây như một dấu ấn đậm nét khó quên của thủ đô Thăng Long Hà Nội. Có thể kể qua vài bài như  Sóng Tây Hồ (thơ Đinh Hùng), Mùa thu Hà Nội (ca khúc Trịnh Công Sơn), Chiều phủ Tây Hồ (ca khúc Phó Đức Phương),Tây Hồ chiều cuối năm (thơ Đoàn Văn Nghiêu). v.v…(Riêng mấy bài cổ điển sau chúng tôi  không xác định được thời điểm viết trước hay sau bài phú ông Lượng: Chơi Hồ Tây nhớ bạn, thơ Hồ Xuân Hương, Chùa Trấn Bắc,thơ Bà huyện Thanh Quan, Tây Hồ thi tập, Nguyễn Gia Thiều, nếu nhà nghiên cứu nào biết rõ xin chỉ bảo cho).

Đọc lại bài phú “Tụng Tây Hồ” chứng tôi nghe ra một “mĩ học” Nguyễn Huy Lượng, đồng nhất với mĩ học Thăng Long, in đậm một nét bản sắc văn hoá Thăng Long -Việt Nam. Đó là những cái đẹp đời thường, yên bình, giản dị, tinh tế mà sau này còn được tiếp tục bởi bao áng văn chương thú vị của các nhà văn hiện đại (từ hình ảnh ông đồ ngồi bên hè phố đến các món ngon Hà Nội, thú uống trà, thưởng hoa, câu cá…, những cái đẹp “Vang bóng một thời” đến thiên truyện ngắn thâm trầm mà hài hước “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải). Chúng tôi tin rằng khát vọng hòa bình của trí thức nho sĩ Thăng Long tiêu biểu cho ý thức nhân dân mới thực sự là ngọn nguồn của danh hiệu “Hà Nội thành phố hòa bình” hôm nay (Tổ chức LHQ dựa trên những tiêu chuẩn nào đó xét phong tặng Hà Nội là thành phố hòa bình, nhưng có thể họ có con mắt xanh nhìn thấy cái đẹp hoà bình tiềm ẩn tự bên trong tâm hồn nghệ sĩ bao đời ở vùng đất này).

Nguyễn Huy Lượng một thi nhân không bốc đồng với một triều đại, ông vẫn nhìn đời bằng con mắt triết học lịch sử, con mắt người Thăng Long- nơi chứng kiến bao cuộc đổi thay kinh thiên động địa. Đặt triều đại Tây Sơn vào trường kỳ lịch sử dân tộc, ngắm nhìn mặt nước Hồ Tây, ông suy ngẫm về sự biến dịch của thế giới:

“Vầng trăng nọ buổi tròn buổi khuyết;
Ngọn nước kia nơi hoắm, nơi nhô”
Nếu cần tóm tắt bài phú ông Lượng trong một câu, ta có thể đọc câu này:

“Đem phong cảnh lại một bầu chi nhỏ”

Nhà thơ - quan chức Nguyễn Huy Lượng đã đem phong cảnh Tây Hồ và một thời đại lẫy lừng tuy không dài chứa đựng trong cái “bầu thơ phú” của một kẻ sĩ Thăng Long Hà Nội giàu chất nghệ sĩ hơn là chất quan chức, không tham vọng mà chỉ tha thiết với hoà bình yên ổn. Đó chính là sức hấp dẫn bên trong của một bài phú nôm độc nhất vô nhị trên hai trăm năm qua.

PHN

Ths.Phùng Hoài Ngọc
Đại học An Giang
ngoc1951@gmail.com
CHÚ THÍCH & TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1), (2) Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến, Nxb Lao động, tái bản lần 3 năm 2009, trang 312
(3) Thăng Long –Hà Nôi ngàn năm văn hiến, Nxb Lao động, tái bản lần 3-2009
      trang 342.
(4) Dẫn lại theo Lê văn Hảo http://maxreading.com/?chapter=29254
(5) Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- hết thế kỷ XIX- Nhà xuất bản Giáo
     dục 1999 trang 220.
(6) CAND cuối tháng, đăng lại trên Web
 (7)  Danh nhân Hà Nội, Vũ Khiêu (chủ biên), NXB Hà Nội, 2004, tr.494- 502.
8.     Lịch sử thủ đô Hà Nội (Nhà xuất bản Lao động, chủ biên Trần Huy Liệu, Hà Nội, 2009 in lần thứ ba)
Tụng Tây Hồ phú
(Nguyễn Huy Lượng)
Lạ thay cảnh Tây hồ !
Lạ thay cảnh Tây hồ !
Trộm nhớ thuở đất chia chín cõi,
Nghe rằng đây đá mọc một gò 
Trước Bạch Hồ vào ở đó làm hang, Long vương trổ nên vùng đại trạch,
Sau Kim Ngưu  do vào đây hóa vực, Cao vương đào chặn mạch hoàng đô 

Tiếng nghe gọi Dâm Đàm, Lãng Bạc,
Cảnh ngầm in tinh chử, băng hồ
Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo,
Hình lượn lượn uốn vòng trăng bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò ,
Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc,
Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa.
Áng đất phơi mỏ phượng còn in, kể rằng đài thượng nguyệt
Vũng nước hút hàm rồng chẳng cạn, người gọi trản trung tô
Tòa thạch tháp nọ nơi tiên để báu,
Chôn thổ đôi kia chỗ khách chôn bùa.
Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ
Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa.
Kề bến nọ, quán Thiên Niên lớp lớp
Cảnh ngàn kia, ghềnh Vạn Bảo nhấp nhô
Tòa Kim Liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh phạn
Hàng cổ thụ gió rung bóng lục, tràng Phụng Thiên nhận sẵn thú Nghi, Vu
Dấu Bố Cái rêu in nền phủ
Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa 
Trông mơ màng dường đỉnh Thứu  nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu chích chích,
Nghe phảng phất ngỡ động Đào mai nọ, mấy tiếng gà trong trại gáy o o .
Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút ,
Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ì ồ ,
Rập rềnh cuối bãi Đuôi nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm,
Thanh lảnh đầu hồ Cổ ngựa tháp cao tăng còn hé cửa tò vò.
Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi canh ghẹo hai phường dệt gấm
Sen vũng nọ nẩy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò.
Cầm ve gẩy lầu thư ánh ỏi,
Mõ cuốc khuya án kệ rì rù.
Gò Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ thẳng kề bên mái Trúc
Non Phục Tượng lúc vầng trăng hé nửa, tiếng hàn châm nghe cách giải sông Tô
Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn,
Khách thâu nhàn lai láng từng khu.
Mảnh áo tơi lốp xốp trong mưa, ca Thanh Thảo quyến đàn trâu gã Nịnh
Con thuyền trúc lân la trước gió, khúc Thương Lương đưa gánh củi chàng Chu
Vầy cuộc ẩn, mọi nghề chẳng thiếu,
Mượn thú vui bốn bạn gồm no.
Cảnh Khán Sơn  chưa gác cột cờ, lòng thơ đã bôi hồi ban lãnh thỏ
Làng Võng Thị còn đông tiệc rượu, tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô.
Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát,
Người Hy Hoàng song bắc ngáy phi pho.
Bến giặt tơ người vốc nước còn khuya, gương thiềm đựng trong tay lóng lánh,
Vườn hái nhị kẻ giày sương hãy sớm, túi xạ rơi dưới gót thơm tho .
Ngang thành thị, ghé yên hà một thú,
Dọc phố phường, tung phong nguyệt hai kho.
Gió hiu hiu dòng Nhị thủy đưa lên, lồng hơi mát tới chùm hoa khóm trúc
Trăng vằng vặc mái Tam Sơn rọi xuống, đớp bóng trong từng lũ cá, đàn cò.
Phong cảnh cũ nhiều nơi thắng lãm,
Triều đại xưa mấy lớp thanh ngu.
Tựa bóng hoa đặt quán quan ngư, kia đời Gia Khánh
Đè mặt sóng đem đường dụ tượng, nọ thuở Kiền Phù
Trải Trần trước đã nhiều phen xe ngựa,
Tới Lê sau càng lắm độ tán dù .
Trộm nhớ thiên bát vịnh du hồ, trong tỷ hứng cũng ngụ lời quy phúng,
Lại nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm thường thỏa ý giao phu.
Tòa đá nọ hãi ghi câu canh họa,
Dòng nước kia dường nổi chén tạc thù .
Năm sau từ nổi bụi tiêu tường ba thước nước khôn cầm màu hiệu khiết,
Buổi ấy cũng góp phần tang hải, sáu thu trời bao xiết nỗi hoang khô .
Hình cây, đá, mưa trôi gió giạt,
Sắc hoa, chim, mây vẩn sương mù.
Chốn tri đàm lâm bợn vẻ thanh quang, xuôi ngược những vẫy đuôi khoa đẩu
Nơi phạn vũ để che màu sảng lãng, dọc ngang treo mắc võng tri thù
Hương cổ miếu đôi chòm lạnh lẽo,
Đèn viễn thô mấy ngọn lù mù.
Kênh đâu đâu đều chảy đến trung sa, lầu túc điểu gió còn sớm quạt,
Sen chốn chốn đã bay về Tây Vực vũng du ngư nguyệt hãy tối mò.
Kêu trị, loạn, đau lòng con đỗ vũ
Gọi công, tư, mỏi miệng cái hà mô
Lũ cây mây lầm tưởng bóng nghê, thơ Thất nguyệt thở than cùng mục thụ
Khách điếu nguyệt biếng tìm tăm cá, chữ Tam mô bàn bạc với tiều phu
Nghe xóm nọ rù rì ve nhặng ,
Ngắm ghềnh kia thấp thoáng trai cò.
Thú cao lưu chếch mác thế cờ, người nhạo thủy ôm cầm khi rạng quế,
Màu yên cảnh bâng khuâng hồn rượu, khách đăng đài gác bút buổi bay ngô
Chiêu phong vị xem dường quạnh quẽ,
Dấu đồ thư ngắm hãy mơ hồ.
Dưới cầu vồng nước chảy mênh mông, đường xưa đưa ngựa,
Trên thành trĩ đá xây lởm chởm, bến cũ gọi đò.
Trước cố cung treo nửa mảnh gương loan, vừng trăng he hé,
Sau cổ tự gửi mấy phong da ngựa, đám cỏ lù rù.
Lớp canh dịch người xưa man mác,
Vẻ tiêu lương cảnh cũ thẹn thò.
Áng phồn hoa vì cảnh muốn phô người, người trải khi vật đổi sao dời, cảnh phải chiều người buổi ấy,
Trời thanh lãng có người mến cảnh, cảnh có sẵn nước trong trăng sáng, người nên phụ cảnh này ru ?
Vầng trăng nọ buổi tròn buổi khuyết;
Ngọn nước kia nơi hoắm, nơi nhô
Tới Mậu Thân từ rõ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch;
Qua Canh Tuất  lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức triêm nhu
Vũng trì chiểu nước dần dần lặng;
Nơi đình đài hoa phới phới đua.
Chốn bảy cây, còn mấy gốc lăng vân, chẳng tùng bách cũng khoe hình thương lão;
Nơi một bến đã đóng đoàn hý thủy, tới uyên ương đều thỏa tính trầm phù.
Vẻ hoa thạch châu thêu, gấm dệt,
Tiếng trùng cầm, ngọc gõ, vàng khua.
Bãi cỏ non trâu thả, ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi;
Làn nước phẳng kình trầm, ngạc lặn, ao Hán nào mấy trẻ reo hò
Mặt đất đùn này thóc, này rau, rầu lòng Cô Trúc,
Mặt nước chảy nọ dòng, nọ bến, mặc chí Sài, Do.
Cây quán kia còn đứng dậy thần uy, đoàn Mán tới dám khoe lời “Tây hữu”
Sen chùa nọ lại bay về Phật cảnh, lũ Ngô về từng niệm chữ Nam mô.
Dấu linh dị rành rành vẫn sáng,
Mạch hậu nhân dằng dặc bao rò.
Mặt thành xưa đem lại thế kim thang, đất xây phẳng lặng;
Cánh hàn cũ sửa ra hình chỉ trụ đá xếp xô bồ.
Ghé vùng danh nẻo lợi bấy lâu, cảnh tuy rằng nhỏ;
So nước trí non nhân mấy chốn, cảnh đã chi thua.
Trải mấy thu từng tựa bóng tàn xanh, thâu cảnh đã vào trong vũ trụ.
Song nghìn dặm đã xa vời bệ tía, góp cảnh còn gọi chốn biên ngu,
Tuy thú vị đã giãi bày ra đó
Sóng thanh dung còn trang điểm lại cho.

Nay mừng
Trời phù chính thống,
đất mở hoành mô.
Quyền tạo hóa tóm vào trong động tác;
Khi càn khôn vận lại trước đô du
Nền hoàng thành đặt vững Long Biên, ngôi bắc cực muôn phương đều cùng hướng;
Nền bắc trạch xây kề Ngưu chử, cảnh Tây hồ trăm thức lại phương phu
Chòm hủ thảo chưa qua tuần đom đóm,
Ánh tường vân đà cách độ tua rua.
Ngắm nguyệt, chiêm từ cấn tượng bốn hào, ống âm dương đà quét bụi;
Xem tuế luật đến Di tân bảy tấc, lò thiên địa mới bay tro
Cơ vãng phục lạnh thôi lại ấm;
Lẽ doanh thâu bớt đã lại bù.
Dưới lục âm vừa sinh khí nhất dương vạn phẩm đã nhờ ơn khôn tạo;
Trên cửu đạo lại tề ngôi thất chính, bốn mùa đều theo hướng đẩu khu.
Hương khâm kính xông miền hiệu đãng
Rượu cung kiền thấm cõi linh u.
Áng năm mây bày ngọc bạch đôi hàng, thảo mộc hãy ca công Thang, Vũ;
Vang chín bệ nổi tiêu thiều mấy khúc, điểu thú đều vũ đức Đường, Ngu.
Vẻ hoa lẩn dấu cờ năm thức,
Mặt nước in bóng giáo ba ngù.
Trước huân phong phảng phất cung đàn, làn thâm thủy muốn vái lên ngũ bái,
Dưới ngọ nhật vang lừng tiếng trúc, hình viễn sơn mong rạp xuống tam hô.
Lễ nhạc ấy nghìn thu ít thấy,
Phong cảnh này mấy thuở nào so.
Trên dưới đều rồng mây cá nước phải duyên, giọt vũ lộ tươi đôi hàng uyên lộ;
Gần xa cũng bờ cõi non sông một mối, tấm đan thành dung khắp lũ nghiêu sô
Hơi yêu mị quét dưới cờ thanh đạo,
Áng tường quang tuôn trước ngọn huyền lô.
Rặng đầu gềnh người mượn chữ vu viên răn loài hồng nhạn;
Ca cuối vũng kẻ ngâm tại chử, nhủ lũ ê phù.
Lời ca ngợi, tưởng ngồi trong Chu Nhã
Điệu ngâm nga, nghe đứng giữa Nghiêu cù
Ngẫm nay đà vui thú tạc canh, đành chốn chốn cũng ca đồng vũ tẩu;
Nhớ trước đã thỏa loài động thực, hẳn đâu đâu đều bặt quỷ êm hồ.
Nay lệnh tiết đã tin điềm thái lãng;
Xin thánh nhân càng ghín chữ dự du
Ngọn nguồn tuôn ràn rụa mái kia ghềnh, đàn chiếu thủy chia dòng Kinh, Vị;
Chòm cỏ mọc tần vần bên nọ miếu, trống thôi hoa rẽ khóm huân, do
Nhận giá sắc, xét dân phong cần, nọa;
Ngắm phong quang, soi vật tính thanh, ô.
Chốn chiểu đài, xem cá nhảy chim bay, thâu sĩ lộ nơi thông nơi trệ;
Miền thôn ổ, lắng chim kêu gà gáy, lượng nhân gian nơi háo, nơi trù.
Tinh u uẩn khắp bày trên thị thính,
Hiệu trị bình đành sắp dưới tề tu.
Nơi mạch kia dân tựa, ấy làm trời, hang chuột ẩn há chừa nơi cỏ khuất.
Bờ liễu nọ kẻ xây, đà vững đất, lỗ kiến đùn khôn chuyển buổi nguồn xô
Đem phong cảnh lại một bầu chi nhỏ,
Mở thái bình ra bốn bể mới to.

Tôi nay
Hổ mình thiển lậu,
Dại trí sơ thô
Dư một kỷ yên bề hu lịch
Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du .
Trước phượng đàn đứng sánh hàng loan, trông hồ cảnh tiến một chương ly ngữ
Bên ngự đạo ngửa trông vừng nhật, nổi thanh sơn mừng muôn kỷ dao đồ
Năm Canh Thân (1800) mùa hạ, ta đến chơi với bạn ở Tràng An, nghe bạn ngâm bài Tụng Tây Hồ phú. Hỏi ai làm bài ấy mà hay thế? Bạn rằng: Chương Lĩnh hầu Hữu hộ Lượng làm ra. Ta rằng: Chao ôi! Hữu hộ Lượng à! Xưa hắn làm tôi triều Lê, nay ra làm ngụy, lại còn tụng Tây Hồ mà chẳng thẹn mặt! Ghét đứa nịnh làm sao! Nhớ xưa có bài thơ "Chiến cổ", nay nhân bỉ kẻ làm Tụng, ta cũng làm bài "Chiến tụng" để góp một chút trò cười với đời.



Ngán nhẽ tụng Tây hồ;
Ngán nhẽ tụng Tây hồ!
Vốn trước đã lở hầm toang hoác vũng;
Có lẽ đâu mọc đá nhấp nhô gò?
Người rằng nơi Long tử khoét làm vũng, bởi được bùa quái chú Huyền trao, vậy cáo trắng hách hơi vào đại trạch,
Kẻ bảo ấy Cao vương đào chặn mạch, vì mảng tiếng chuông thầy Khổng nện, nên trâu vàng theo dấu đến trung đô.
Bốn mặt chứa châu cung, kim điện;
Một doành thâu băng chử, ngọc hồ.
Bãi Dâm Đàm gió thét trận Trưng Vương, khi chướng vụ khua ran đầu lính ngất;
Gò Lãng Bạc tuyết tan đồn Bắc tướng, đàn lộ âu tắm lẩn bóng trăng nhò.
Có thu nguyệt mới nước trời in sắc;
Chửa xuân thiên sao hoa cỏ theo mùa?
Cát xô lên mỏ phượng lù sù, hình thu nữ thẹn lên lầu nguyệt kính;
Nước chảy xuống hàm rồng róc rách, dáng xâu lang rót lại chén đồ tô.
Toà thạch tháp đã tan bình xá lị;
Đống thổ đôi đà nát dấu linh phù.
Lưới Mục lang âu nát mất cả giềng, gian chẳng bắt, nữa hoài công bắt hổ;
Gươm Trấn Võ chỉ còn trơ những sống, giặc không giam mà cố sức giam rùa.
Thiên niên nếu được lâu, sao quán nát;
Vạn bảo nào có báu, để ghềnh nhô.
Ngắm tăng ni thơ thẩn khổ tu hành, anh xe vóc, chị mũ vàng, đảnh đảnh thế, ở làm trò Phạm Vũ;
Xem đồng quan dở dang chiều lý thú, đứa dải đào, thằng khăn thắm, láo lức thay, chạy đến quấy Nghi Vu.
Ông Đá dãi dầu hình tượng miếu;
Bà Đanh vắng ngắt tiếng chuông chùa.
Nhà tranh đua đều khấn bụt cầu ma, đường Quan thánh khéo lăng nhăng lít nhít;
Chợ xao xác những buôn hùm bán quỷ, mái Trương Lương nghe lếu láo y o.
Khói lò gạch thổi lưng trời ngùn ngụt;
Sóng cánh hàn xô sườn đá ồ ồ.
Bãi Đuôi nheo tanh ngắt giống tinh chiên, nước trong hồn vẻ nguyệt chẳng còn ưa, thuyền du tử lái chạy ra cho chóng;
Hồ cổ ngựa thối hoăng mùi đại tiểu, hoa thơm giận chiều xuân sao nỡ phụ, lều cư nhân tranh nát đã như vò.
Yên công tử ắt đà long cổ nối;
Mộc vũ thần âu hẳn gẫy ta co.
Thoi oanh dầu dệt liễu nên tơ, cửa nam khó xỏ kim thêu túi;
Đèn đóm dẫu soi sen thấy lửa, quân Tây khôn hút điếu hun lò.
Quyên oán hạ thiên đà khắc khoải;
Ve hờn nam địa mới rì rù.
Chùa Châu long hương cúng khét mù, nghe mõ cá đã rúc vang cầu Trúc;
Hồ Bạch mã sen bay mất cả, làm giấy hoa đem bán dải sông Tô.
Ngắm cảnh trí cũng mảng vui mấy thú;
Xem phong quang nào có vẻ một khu.
Cái cô đình cho gió lọt hoa kề, lơ thơ cảnh đượm màu sương, đường tạo hoá đã in chân thuý bích;
Con tiểu đĩnh đã mây che nước chở, lóng lánh sóng in sắc nguyệt, ngỡ khuôn trời còn đúc bạc đào châu.
Góp cảnh vật đủ tháng ngày cũng hó;
Lấy cỏ hoa làm bầu bạn mà no.
Cành dưới trên sương hãy nhuộm màu xanh, ca ngư tử đã xua tan vầng ngọc thỏ;
Cây ngang dọch tuyết vừa đông bãi bạc, địch mụch nhi đã thổi sáng bóng kim ô.
Truyện Tần Hán kẻ kia cười lả lướt;
Giấc Hi Hoàng người nọ ngáy phi pho.
Cuộc doanh thâu bàn bạc bắc nam chơi, khúc lưu thuỷ gảy vài cung réo rắt;
thơ thanh nhã đề ngâm phong nguyệt mới, rượu càn khôn rót mấy chén thơm tho.
Vuông đất tròn trời, thu về chặt túi;
Ngang sông dọc núi, chở lại đầy kho.
Hóng thanh phong nằm khểnh tót Tam sơn, phơi bụng trí để đãi đoàn ong kiến;
Chở minh nguyệt tếch về ngay Nhị thuỷ, gương mắt thần mà ngắm thế trai cò.
Bấy nhiêu đã lấy chi làm thắng khải;
Còn những đâu mà dám nói nhàn ngu?
Cao minh chi mà biết phép quan ngư, nào có phải Ba La cổ sắt;
Tài cán ấy khó làm mưu dụ tượng, dễ mà như Hư Tĩnh thư phù.
Đường ngoạn thưởng lờ mờ móng ngựa;
Cung du quan mù mịt bòng dù.
Đồ ăn thức mặc, ngán nỗi phố phường, xem phong vị khó như đời đại hữu;
Kẻ ám người gian, gớm thay quân tướng, ngẫm minh lương nào phải đạo trung phu.
Chữ lối cua bò, lằng nhằng thư thảo;
Thơ ròng chó chạy, láo nháo xướng thù.
Nhạc tiêu thiều còn lõm bõm khúc xưa, tiếng thanh điểu gọi người đi kẻ lại;
Sắc chương phủ hãy lờ mờ dấu cũ, ngọn kim phong lay lá rụng chồi khô.
Con túc vụ mờ mờ về lĩnh quạnh;
Cái cô hồng thăm thẳm tếch sương mù.
Chốn thi đình ve giục mới hè sang bốn vách in sầu thơ bạch nhạn;
Mái cầm viện dế kêu liền thu đến, vài gian kết thảm lưới thanh thù.
Đàn dế rúc sương, cung ánh ỏi;
Lửa huỳnh đưa gió, bóng tù mù.
Cát xô lên mặt nước trắng phau phau, nghĩ ấy thầy Tân đem hạc múa;
Trăng lạnh xuống đáy hồ trong vằng vặc, tưởng rằng ông Lý cưỡi kình mò.
Khóc khí vận tối căm con đỗ vũ;
Kêu cơ hoang sớm tủi cái hà mô.
Quyên thét lâu thì luống để hờn lâu, bên cầu vồng nghe nhịp trống khua trăng, vì Nam tướng phải căm lòng Bắc sĩ;
Ếch kêu mãi lại càng thêm oán mãi, trên thành trì lắng ngọn còi huýt gió, bởi Tây triều mà ghét chí Đông phu.
Than với đất cả đoàn ong lũ kiến;
Thở cùng trời từ cái cốc đàn cò.
Thưởng nghiên trà cho cá lội hạc bay, khi hứng vịnh nguyệt dòm quanh bóng quế;
Nhớ thuần lư sẵn ngòi sâu nước rộng, buổi quy lai gió thổi rụng cành ngô.
Kẻ cao sĩ ắt nhiều nơi trực bút;
Đứa tiểu nhân âu lắm lúc hàm hồ.
Phường Khán sơn hoa kết võng vừa rồi, đoàn kỹ nữ bẻ bai hình đến phố;
Chợ Võng thị rượu nồng hương mới chín, lỹ tuý ông tất tưởi dáng sang đò.
Khói viễn thôn khi ngọn gió ra vào, trông thấp thoáng ngỡ nhà ma cửa lấp;
Trông cổ quán lúc tấm mây cuốn mở, thấy xa xa dường núi ngất cây rù.
Chim bay nhảy đầu non vì vụt;
Cá xuống lên mặt nước thập thò.
Cảnh vưa khi quân tướng những ta xưa, thú cỏ hoa thì ai cũng chiều chơi, nào ngờ tuyết lạnh sương tan, lòng dạ ấy phải biết cho người với;
Người đến buổi quan hà về kẻ khác, thù non sống nghĩ mình chưa trả được, dẫu có trăng trong gió mát, mặt mũi nào mà vui với cảnh ru!
Quảy cả văn chương hòn đất lấp;
Chảy băng danh vọng khúc sông nhô.
Quỷ dạ xoa quấy bụt xuống chi đây, người bách nghệ đến đâu đều khổ não;
Thần hạn bạt nát ai ra đấy tá, kẻ tam nông mong chẳng được tô nhu.
Cơn binh lửa trải mấy tao dời đổi;
Buổi phong trần thêm mấy dịp tranh đua.
Lớp tang thương rơi rụng tựa hoa tàn, ngẫm thiên đạo cũng vui thay cảnh thú;
Cuộc Nam Bắc được chăng dường chớp giật, nghĩ thời cơ thêm ngán nỗi khuông phù!
Đường vinh nhục nọ dòng nước chảy;
Áng lợi danh kìa đá lửa khua.
Gánh quân thân ai đã mỏi vai rồi, kẻ tráng sĩ làm thinh đi chẳng dứt;
Vạc quốc bảo khách còn dang cánh kéo, đứa nhâm nhân gắng sức lại mà hò.
Du hồ dễ mấy ai Phạm Lãi;
Phù hải âu chẳng một Tử Do.
Cửa âm dương khép mở sớm khuya liền, cơ huyền diệu khó lường sinh với tử;
Xe nhật nguyệt dẩy dun xuôi ngược mãi, kiếp phù hư khôn tính hữu hay vô.
Vầng trăng nọ tròn rồi lại khuyết;
Bình nước kia đấy lắm có khi rò.
Nhớ khi thanh dạ tần trăng, sen thoang thoảng đưa phong trà ướp mộc;
Tưởng buổi đoan dương quạt gió, lửa bừng bừng đun ấm rượu ngâm bồ.
Thanh cung khi hạ tới nắng đương nồng, nhồi phấn phun hương, so thanh lãnh với đông kia chẳng kém;
Lãng uyển buổi thu tàn hoa chửa rã, thêu hồng kết lục, vi phân phương cùng xuân ấy không thua.
Thủa ngự du đưa đĩnh phượng thuyền rồng, thẻ thanh hồng hoa cắm chặt áo tiên, thu được cả vương hầu khanh tướng;
Khi tứ yến bầy đàn loan quân phượng, khúc vũ nghê gió thổi lên cung nguyệt, vui mừng đều thành thị hải ngu.
Nông nỗi ấy kể càng thêm thảm nhỉ;
Cơn cớ này ai hầu dễ biết cho.

Đến nay:
Tan tành phong cảnh;
Nát bét qui mô!
Cơn thảo muội những gặp điều biến cải;
Lúc phong trần khôn thấy hội đô du.
Nhận cố cung phai nhạt màu xưa, tới mộc thạch cũng đeo sầu tiêu xác;
Xem hồ thuỷ thẹn cùng sắc nước, đến cỏ hoa đều ê ủ phân phu.
Thấy địa trận lắm nơi xoay gió lốc;
Xem thiên văn đương lúc thẳng sao rua.
Thuở bát chuyên độn lại thêm phiền, Canh Thân ấy ắt còn bền tựa đá;
Quẻ lục hợp bói ra cũng phải, Nhâm Tuất kia âu hẳn nát như tro.
Vận hội ấy nghĩ cũng đà nên biến;
Công lao kia xem chứa chút nào bù.
Nếu ra tay thì núi lở sông reo, thề chí ấy để vững ngôi nhân thế;
Hễ chớp mắt hẳn trời xoay đất chuyển, quyết gan này đem lại đứng thiên khu.
Có trung nghĩa hẳn không cùng lưỡng lập;
Để tinh thần cho thấu đến cửu u.
Rửa quan hà sạch dấu tanh hôi, vạn vũ được nhờ ca hữu tượng;
Quét thành thi hết loài gai góc, bốn phương đều đội đức vô ngu.
Bởi con Tạo có tơ gây lắm mối;
Vậy thợ Trời không thắm nhuộm nên ngù.
Kèn Thọ Xương đưa khách bắc nam về, thổi vu ký vu quy hồ hi hí;
Văn Quảng Bá viếng người khanh tướng chết, khó vô cô vô cố vi ô hô!
Kèn thổi thế dễ ai đua ngón được;
Văn khóc kia mấy kẻ đặt lời so.
Nghĩ thời cơ mà thêm cám cảnh thay, thử liếc mắt ngắm cùng con âu lộ;
Ngắm thế sự mới cùng ngao ngán nhẽ, sẽ rỉ tai bàn với lũ mục sô.
Rằng thiện ác vì ai dùi đứt lưới;
Hỏi thịnh suy nào kẻ đạp toang lò.
Vận hoang niên nào có ít tử hung, được vui thoả hẳn quên câu oán nhạn;
Người loạn thế biết bao nhiêu cơ cận, lúc no say đà gợi khúc ca phù.
Máy trời đất chẳng khác chi bàn rối;
Vòng cổ kim xem tựa giống đèn cù.
Chính sự này đừng nói với ta chi, nỏ kim quy để nhằm con quái thỏ;
Văn chương ấy chớ khoe cùng tớ nữa, cung mộc tinh dành bắn cái yêu hồ.
Gẫm nhân sự biết rằng cơ trị loạn;
Xem hồ quang đã không dấu thanh du.
Con lộc kia nào có phép toàn đâu, ông ngồi mã thượng hãy rình theo, còn quen thói nịnh tà mà chỉ lộc;
Khóm do nọ hẳn đến ngày thì cắt, kẻ muốn tình chung mà rửa sạch, bỗng buông tuồng gian ác lại sùng do.
Đá khiết bạch khó mài mầu xiểm nịnh;
Nước thanh quang khôn lọt vết tham ô.
Quốc đã nguy mà tướng lại không tài, phép đâu biết rằng cơ trị loạn;
Quân thì ám vả thần du chỉ nịnh, lẽ nào hay đến chốn điều trù.
Nẻo tiên cũng khó tìm nơi hoá;
Dấu phật du khôn xuống đấy tu.
Võ sự xem ra khổ man di, thẳng bước tới đứa chen vào, chiến trận thế cũng cờ giong trống giục;
Đạo học ngẫm chẳng theo hiền thánh, kẻ bày lời người thưa dịch, thi cử gì mà cửa lệch sân xô.
Khí tượng ấy cũng chưa vương được nhỏ;
Anh uy này toan lại đế cho to.

Đây nay:
Chơi thì đã trải;
Ở cũng không thô.
Nghĩ cước sợ lây hơi chung đỉnh;
Nên mình còn nhẫn dấu phần du.
Giận vì thằng sao nỡ đặt "Tụng Hồ", bênh nguỵ tặc bỏ ơn đời đế thế;
Cho nên đây phải hoạ vần "Chiến tụng", nguyện ngô quân đem lại nếp hoàng đồ.










TRƯỜNG HỢP PHẠM THÁI QUỲNH NHƯ




I. Phạm Thái (1777-1813)




Ông người xã Yên Thượng, huyện Đông Ngàn, nay phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Thân phụ trước làm quan với nhà Lê được phong tước Trạch Trung hầu, sau khi Tây Sơn dứt nhà Lê, có khởi binh chống lại bị thua. Ông định nối chí cha, đi tìm người đồng chí để lo sự khôi phục. Vì bị truy nã, ông phải trá hình đi tu ở chùa Tiêu Sơn (thuộc tỉnh Bắc Ninh), lấy hiệu là Phổ Chiêu Thiền sư. Một người bạn đồng chí là Trương Đăng Thụ làm quan ở Lạng Sơn cho người đón ông lên đấy nhưng không được bao lâu Đăng Thụ mất, ông mới đến xã Thanh Nê (thuộc huyện Ý Yên tỉnh Nam Định) là quê Đăng Thụ viếng bạn và ở đấy ít lâu. Phạm Thái được dịp biết người em gái của Đăng Thụ là Trương Quỳnh Như. Hai người thầm lén yêu nhau, làm thi văn tương tặng. Cha Quỳnh Như là Trương Đăng Quỹ biết rõ gốc gác Phạm Thái, cũng muốn gả con gái cho, nhưng bà mẹ không ưng. Bị ép lấy một người nàng không thuận, Quỳnh Như buồn bực mà chết (có sách chép là nàng tự ải). Phạm Thái từ khi công việc chống Tây Sơn thất bại lại mất người yêu, sinh ra chán đời, chỉ uống rượu li bì, tự hiệu là Chiêu Lì, đi lang thang khắp nơi, năm 37 tuổi thì mất ở Thanh Hóa.
Về thi văn Phạm Thái để lại, có bài Chiến tụng Tây hồ phú, những bài văn liên quan đến mối tình với nàng Quỳnh Như và mươi bài thơ ngâm vịnh ngẫu hứng thường tỏ dạ chán đời.




II. Chiến Tụng Tây Hồ




Về bài này chính tác giả có lời dẫn sau đây cho ta thấy rõ trường hợp mà ông sáng tác:
"Năm Canh Thân (1800) mùa hạ ta đến chơi với bạn ở Tràng An (tức kinh đô Thăng Long) nghe bạn ngâm bài Tụng Tây hồ phú. Hỏi ai làm ra bài ấy mà hay thế. Bạn rằng: Chương Lĩnh hầu Hữu hộ Lượng làm ra. Ta rằng: chao ôi! Hữu hộ Lượng à! Xưa hắn làm tôi triều Lê, nay ra làm ngụy, lại còn tụng Tây Hồ mà chẳng thẹn mặt? Ghét đứa nịnh làm sao! Nhớ xưa có bài thơ Chiến cổ, nay nhân bỉ kẻ làm bài tụng ta cũng làm bài chiến tụng để góp một chút trò cười với đời."
Vậy bài này có tính cách bút chiến, dùng để trả lời bài của Nguyễn Hữu Lượng về lập trường chính trị. Trong bài Tụng Tây Hồ phú, Nguyễn Hữu Lượng đã hết sức ca tụng cảnh đẹp, thịnh của Hồ Tây để gián tiếp ca tụng công đức, khí vận Tây Sơn. Trong bài chiến tụng này, Phạm Thái ngược lại, nêu ra những nét tiêu sơ ảm đạm của Hồ Tây, ngụ ý bỉ báng Tây Sơn bạo ngược, khiến cho vận nước suy đồi.




Cái đặc sắc của bài chiến tụng là tác giả đã khéo họa lại đủ 86 vần trong 86 liên của bài xướng mà ý tứ tân kỳ, lời lẽ rắn rỏi không thua kém gì bài xướng. Các liên phú cũng gò chắp công phu, trau tria bóng bẩy như:




Cái cô đình cho gió lọt hoa kề, lơ thơ cảnh đượm màu sương, dường tạo hoá đã in châu thuý bích - Con tiểu đĩnh đã mây che nước chở, lóng lánh sóng in sắc nguyệt, ngỡ khuôn trời còn đúc bạc đào châu. (liên 21)




Cành dưới trên sương hãy nhuộm màu xanh, ca ngư tử đã xua tan vầng ngọc thỏ - Cây ngang dọc tuyết vừa đông bãi bạc, địch mục nhi đã thổi sáng bóng kim ô. (liên 23)
Tác giả lại hay nhè chỗ Nguyễn Huy Lượng tán tụng Tây Sơn mà "đập lại" rất thú vị như:

Liên 60:
Nay mừng: Trời phù chính thống - Đất mở hoành mô

Liên 61:
Quyền tạo hóa tóm vào trong động tác - Khí càn khôn vận lại trước đô du

Liên 62:
Nến hoàng thành đặt vững Long biên, ngôi bắc cực muôn phương đều cùng hướng - Đàn bắc trạch xây kề Ngưu chử, cảnh Tây hồ trăm thức lại phương phu

Liên chót:
Trước phượng đàn đứng sánh hàng loan, trông hồ cảnh tiến một chương li ngữ - Bên ngự đạo ngửa trông vầng nhật, nổi thanh sơn mừng muôn kỉ dao đồ

Đến nay:Tan tành phong cảnh - Nát bét quimô!

Cơn thảo muội những gặp điều biến cải - Lúc phong trần khôn thấy hội đô du

Nhận cố cung phai nhạt màu xưa, tới mộc thạch cũng đeo sầu tiêu xác - Xem hồ thuỷ thẹn cùng sắc nước, đến   cỏ hoa đều ê ủ phânphu

Giận vì thằng sao nỡ đặt Tụng Tây Hồ, bênh nguỵ tặc bỏ ơn đời đế thế - Cho nên đây phải hoạ vần chiến tụng,   nguyện ngô quân đem lại nếp hoàng đồ




III. Mối tình với Trương Quỳnh Như




Câu truyện gặp gỡ xảy ra như đã nói trong phần tiểu sử. Bấy giờ Phạm Thái tuổi ngoài 20 và đương ẩn tích trong nếp áo thiền sư. Đến Thanh Nê để điếu người đồng chí xấu số, Phạm Thái được đón tiếp vào nhà như một người thân. Họ Trương là một gia tộc quyền quý, đức lệnh. Trương công, cha bạn, dò hỏi biết rõ gốc gác và chí hướng Phạm, đem lòng quý mến bội phần. Cô tiểu thư đôi lần ra vào nấp nom cũng thấy lần đầu rung động vì một bóng dáng hiên ngang. Kết quả là người tráng sĩ mềm lòng ở lại, đổi nếp áo thầy tu lấy nếp áo thầy đồ. Rồi giữa viện sách và buồng thêu, một mối tình thơ mộng nhất được dệt ra, gởi vào những bài thơ bóng gió kẹp trong một cuốn sách mượn đi trả lại. Nhưng tất cả đã lọt mắt ông cụ già. Ông thì thương song bà nhất định không thuận. Bẽ bàng chàng kiếm cớ ra đi. Và đến khi chàng trở lại thì nàng đã ra người thiên cổ.
Mối tình thơ mộng và bi thảm ấy đã để lại về phía Phạm Thái một ít thơ văn:




1.- Bài văn tế Quỳnh Như  trước mộ nàng, có chỗ thảm thiết như:

Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná nhân duyên - Mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh.
Cho đến nổi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm, chua xót cũng vì đâu, não nuột cũng vì đâu. Nay qua nắm cỏ xanh, thương người phận bạc, xụt xùi hai hàng tình lệ, giãi bày một bức khốc văn, đốt xuống tuyền đài, tỏ cùng nương tử.

2. Mấy bài thơ  tỏ tình thương nhớ với người yêu mà đây là một:

GỬI TRƯƠNG QUỲNH NHƯ




Dảy hoa đun lá bởi tay trời,
Nghĩ lại tình duyên luống ngậm ngùi.
Bắc yến nam hồng thư mấy bức,
Đông đào tây liễu khách đôi nơi.
Lửa ân dập mãi mà không tắt,
Bể ái khơi hoài cũng chẳng vơi.
Đèn nguyệt trong xanh mây chẳng bợn,
Xin soi xét đến tấm lòng ai.




3. Truyện Sơ Kính Tân Trang:




Truyện kể cuộc tình duyên trắc trở của chàng Phạm Kim với Trương Quỳnh nương. Nguyên hai bên cha mẹ đã trao tặng lược gương (sơ: cái lược, kính: cái gương) để đính ước cho đôi trẻ, nhưng loạn lạc xảy ra khiến cho hai nhà xa nhau, không đường tin tức. Rồi Phạm Công mất, cửa nhà tan tác, Phạm Kim buốn đi ngao du, tình cờ tìm ra nhà Trương Công, được gặp Quỳnh nương, cùng nhau trao đổi thư từ. Nhưng lúc ấy, một vị đô đốc có quyền thế đến nhà họ Trương, xin hỏi và cưới ngay Quỳnh nương. Trương Công sợ hãi bối rối. Quỳnh nương biết không tránh được sự ép duyên nên nhắn tin để gặp gỡ vĩnh biệt Phạm Kim rồi uống thuốc độc tự tử. Phạm Kim buồn bã gởi thân nơi cửa Phật, mong dịu vết thương lòng. Trương Công lại còn một người con gái nữa là Thụy Châu. Khi trưởng thành gặp lúc vua ra lệnh tuyển cung nữ, Thụy Châu để tránh ẩn phải giả trai làm một đạo sĩ cùng một nữ tì giả dạng làm tiểu đồng, rời nhà đi ngao du. Thụy Châu đến chơi ngôi chùa của Phạm Kim, cùng vị thiền tăng này xướng họa rất là tương đắc. Sau đó Phạm Kim bỏ chùa tiếp tục việc học, không dè đến nhập môn chính Trương Công, và được Trương mến tài lưu lại trong nhà. Phạm có dịp nhận ra người con gái cải trang bữa trước, túc là Thụy Châu. Lại nhờ có những kỷ vật mà Phạm được nhận ra là con người của Quỳnh nương ngày xưa. Vành lược cũ đính ước cùng cô chị nay gài lên mái tóc cô em (thế là Sơ kính tân trang). Tuy nhiên dầu vui duyên mới chàng Kim vẫn nhớ nghĩa xưa.




Truyện này làm ra hẳn sau khi tác giả đã nếm trải hận tình (có thể chắc là làm trong những năm cuối đời Cảnh Thịnh). Như có thể thấy ở trên, chỉ là câu truyện của chính tác giả được cải trang đi đôi chút (tên học của các nhân vật thì lại quá bộc lộ). Tác giả thêm ra chi tiết ly kỳ, như sự đính ước từ trước giữa hai nhà, nhất là cả một hậu hồi đem mối duyên em cũng rất ly kỳ hứng thú để đền vào tình chị. Thât là một giấc mơ trong phòng văn của một chàng nghệ sĩ thất tình. Và ta có thể thấy trên mỗi trang truyện tâm hồn của tác giả bộc lộ đằm thắm. Tuy nhiên truyện kém nghệ thuật, kết cấu lôi thôi, lời văn thường nặng nề, chất phác. Câu thơ lục bát kém nhã luyện. Có thể dẫn đoạn tả nàng Trương Quỳnh làm thí dụ:




Trương Công là đấng nghiêm đường,
Vốn dòng ngọc diệp tên nàng Quỳnh thư.
Xuân hoa bữa ấy đang vừa,
Tuổi vừa đôi tám phong tư lạ lùng.
Thước tầm phong dạng bằng ông,
Lam pha mày liễu, mỡ đông da ngà.
Chiều cá nhảy vẻ nhạn sa,
Mặt long lanh nguyệt tóc rà rà mây.
Má hồng môi thắm hây hây,
Khổ mê thược dược, thức say hải đường.
Chiều sánh ngọc vẻ so vàng,
Ôi hoa vì sắc, ủ hương vì mầu.




Tóm lại về cuộc tình duyên trắc trở của ông, Phạm Thái đã ký thác nhiều trên trang giấy, để lại nhiều áng thi văn từ một hứng ấy nẩy ra. Song bên cạnh Phạm Thái, Trương Quỳnh Như cũng là một nữ sĩ, một cây bút nôm luyện tập. Ái tình trong con tim trong trắng của nàng cũng đã khơi nguồn cho mộng cho thơ. Nay còn lưu lại một số bài làm chứng tích cho cuộc tình duyên về phía Quỳnh Như. Ta thấy có những bài gởi cho Phạm Thái, những bài đề vịnh cảnh vật. Đây là một trong 12 bài thơ vịnh 12 giờ, cho ta thấy tâm trạng của cô xuân nữ lần đầu biết đến cái sầu tương tư.

VỊNH GIỜ SỬU




Đằng đẳng canh dài khá cách đêm,
Đìu hiu giờ Sửu giấc nào êm.
Tiếng hàn chiêm nện hơi sương lạnh,
Trận hỏa thang nung dạ sắt mềm.
Eo óc giục người gà nội quạnh,
Véo von gọi khách dế bên thềm.
Vắt tay ngang mặt mong cho sáng,
Thấy sáng mà sầu đã lại thêm.




IV. Những bài thơ ngẫu cảm của Phạm Thái




Ngoài phần thi văn trên, Phạm Thái còn để lại nhiều bài thơ bình nhật ngẫu cảm. Đặc sắc nhất là những bài ông làm ra sau khi chí lớn không thành, mộng tình tan vỡ, cất bước lang thanh khắp nơi, tìm quên lãng trong men rượu. Những bài này thường lộ cái ý chán đời cùng cực, giọng khinh bạc và ngông ngạo. Như bài Tự trào:




Có ai muốn biết tuổi tên chi,
Vừa chẳn ba mươi gọi chút Lì.
Năm bảy bài thơ gầy gối hạc,
Một vài đứa trẻ béo răng nghê.
Tranh vờn sơn thủy màu nhem nhuốc,
Bầu dốc kiền khôn giọng bét be.
Miễn được ngày nào cho sướng kiếp,
Sống thời nuôi lấy chết chôn đi.




Hay bài Tự thuật:




Năm bảy năm nay cứ loạn ly,
Cảm thương thân phận lỡ qua thì.
Ba mươi tuổi lẻ là bao tá,
Năm sáu đời vua thật chóng ghê.
Một tập thơ sầu ngâm đã chán,
Vài be rượu lạt uống ra gì!
Thôi về tiên phật cho xong nợ,
Cái kiếp trần gian sống mãi chi!




V. Một trường hợp xã hội




Điểm lại văn học sử nước nhà, ta thấy câu truyện Phạm Thái Quỳnh Như trên quả là một trường hợp đặc biệt. Trong xã hội nho giáo ngày xưa, ở một gia đình nền lễ sân thi như họ Trương mà cô con gái dám tự do yêu đương, dám phản kháng lệnh hứa hôn của cha mẹ, lại dám tìm đến cái chết để khỏi phụ người yêu, thì tiếng nói của tình cảm, của cá nhân, của nữ lưu quả đã vươn cao lắm. Xem truyện, người ta có cảm tưởng như việc xẩy ra mới đây, hồi đầu thế kỷ này khi tư trào Âu Tây tràn vào phá vỡ luân lý Khổng Mạnh. Thì ra cơn sóng lãng mạn không phải không có những lúc xô dội ghê gớm trong xã hội nho giáo ngày xưa. Nhưng ta cũng cần đặt câu truyện vào thời đại của nó để dễ hiểu hơn. Thời Lê Mạt ở nước ta chính là thời loạn ly tàn phá. Những khuôn phép luân lý đã hết khắt khe. Tình cảm cá nhân được buông thả. Mặt khác nếp sống hưởng thụ, không khí dật lạc, phong thượng diễm tình nẩy nở, lan tràn từ vua chúa xuống quý tộc. Những áng văn đời Trịnh mà ta đã phân tích như Chinh phụ, Cung oán, Hoa Tiên là những vết tích văn học. Trường hợp Phạm Thái, Quỳnh Như đây là một bằng chứng xã hội.




Cứ xem câu truyện cùng thi văn họ để lại thì thấy cả hai đều là trong hạng nòi tình của xã hội thời ấy. Quỳnh Như là một gái khuê các, một thứ "người em sầu mộng trong song", hẳn từng là độc giả say mê của Tây Sương, Tình Sử. Gặp chàng hiệp sĩ như trong mộng tưởng, nàng đã theo trớn lãng mạn, hiến dâng cho tình yêu cả linh hồn, cả sự sống. Phạm Thái tuy nói có chí lớn muốn đánh Tây Sơn để khôi phục nhà Lê, song chẳng qua là khách khí của tuổi đôi mươi, một thứ lửa rơm mà vài thất bại con con đủ để dập tắt. Cái cốt cách của Phạm Thái là con người công tử năng tửu, năng thi của những gia đình hiển quý dưới chúa Trịnh, nhiều tài hoa hơn là chí khí, giầu tưởng tượng hơn là nghị lực. Cho nên soi vào đôi mắt giai nhân, gan tráng sĩ đã thành mây khói. Rồi từ đeo vết thương lòng, nhận sự thất bại như một định mệnh, coi chán đời như một chủ nghĩa, kéo dài tháng năm vô vọng trong rượu quán và thơ ngông. Phạm Thái ở địa hạt hàng động không nên trò trống gì nhưng dưới con mắt nhà văn học, hình ảnh của ông thật là quyến rũ. Người trai thời loạn ấy đã đeo gươm tráng sĩ, đã khoác áo thiền sư, lại đóng vai tình lang nồng nhiệt, để rồi đương tuổi thanh xuân, đeo nặng cuộc đời như một cùm xích, con người ấy quả cũng đã hội hợp được tất cả những gì gọi là lãng mạn trong quan niệm của chúng ta nay.




VI. Sự xuất hiện của bài Từ




Trong những sáng tác của Phạm Thái và Quỳnh Như, còn lưu lại mươi bài Từ, đó cũng là một đặc sắc đáng chúng ta ghi nhận để kết thúc về đôi văn sĩ này.




Trong văn học Trung hoa, Từ là một thể thơ với những câu dài ngắn không đều và xuất hiện sau Thi. Đó là một thành tích của nhà thơ Trung hoa muốn phá vỡ những quy tắc khắt khe của bài Đường luật để đem lại cho điệu thơ nhiều biến đổi, cũng để thích ứng lời thơ cho việc phổ nhạc. Bài Từ khởi lên ngay từ đời Đường (Lý Bạch đã có làm, Ôn Đình Quân đời Vãn Đường thường chuyên), qua đời Tống thì rất thịnh hành. Bài Từ không có một khuôn khổ duy nhất. Các thi gia, nhạc gia chế ra nhiều điệu, đặt cho mỗi điệu một tên (có cả trăm điệu, kể mươi điệu quen biết: Bồ tát man, Ức Tân Nga, Mộng Giang Nam, Điệp luyến hoa, Tây giang nguyệt, Trường tương tư, Tố ai tình ...). Mỗi điệu có một số câu với số chữ và cách gieo vần nhất định.




Trong văn học ta bài Từ chữ Hán có ngay từ đời Lý (bài Từ nổi tiếng của sư Ngô Chân Lưu tiễn sứ giả Lý Giác, theo điệu Tống Vương Lang quy). Song về Việt văn thì có lẽ chỉ tới đây ta mới băt gặp lần đầu dưới ngòi bút của Phạm Thái và Quỳnh Như (1). Cũng bởi Từ (ngay trong tinh thần Trung hoa) là lối sáng tác nặng màu tình cảm, thường mượn tiết tấu uyển chuyển, lời lẽ nùng diễm, để đạo đạt những u tình, kiến ngộ, nhất là rất xứng hợp để bọn tài tử giai nhân khơi tả nỗi sầu tư luyến tưởng. Cho nên ta không lấy làm ngạc nhiên thấy xuất hiện dưới bút của đôi công tử tiểu thư Lê mạt này trong câu truyện tình duyên của họ. Tuy nhiên loại Từ này không thấy nẩy nở về sau, trừ có ngành ca Huế về sau lợi dụng nó rộng rãi, còn không thấy dưới ngòi bút các thi gia. Có lẽ phần vì nó lả lướt, phóng túng, không mực thước nghiêm trang như bài Đường Luật, nên không hợp với óc quy củ của nho gia ta, phần nữa vì nếu chỉ cần cho âm điệu biến đổi, tiết tấu phong phú thì ta đã có sẵn những lối song thất, hát nói, giầu nhạc tính hơn nhiều.




Trong những sáng tác của Phạm Thái và Quỳnh Như, bài Từ thường được lồng vào những câu lục bát hoặc song thất. Đây là hai thí dụ:




THĂM CHÙA NON NƯỚC




Trèo lên Dục thúy thăm chiền,
Non xanh nước biếc cảnh tiên dưới trần.
Thướt tha mây trắng một làn,
Như buông bốn phía cánh màn bạch sa.
Chim hót véo von chào khách,
Cỏ thơm hớn hở mừng ai.
Gió thu rung động mấy cành mai,
Khêu gợi hồn thơ lai láng.
Cầm bút đề lên thạch tảng,
Một bài cổ tích cảm hoài.
Nào người chiến sĩ kẻ văn tài,
Khôn hỏi Nước non đâu tá? (Trương Quỳnh Như)




GỞI TRƯƠNG QUỲNH NHƯ




Ai lên tử các thanh vân,
Hỏi thăm ả Tố, chiều xuân thế nào?
Cầm âm một khúc gửi trao,
Cậy lòng dì gió, đưa vào xuân cung.
Oanh yến véo von gọi khách,
Cỏ hoa hớn hở mừng ai.
Gió xuân hây hẩy giục đưa người,
Dễ khiến lòng thơ bối rối.
Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu,
Thung thăng phấn bướm dồi mai.
Vũ lăng xa diễn biết bao vời!
Khôn hỏi Đào Nguyên đâu tá?
Khôn hỏi Đào Nguyên đâu tá?
Giòng ngự câu đeo lá tình thi.
May thay một hội tương kỳ,
Đã bên tình phận lại bề phong lưu. (Phạm Thái)




Hai bài Từ trên đều theo điệu Tây giang nguyệt (2), có 8 câu, 50 chữ. Bài Từ Trung hoa hiện rõ ra giữa các câu thơ ta vì chỉ có cước vận.

Mối tình Phạm Thái - Trương Quỳnh Như,
Chứng tích của tình yêu tự do và lãng mạn

*

Trong văn học cổ của nước ta -bình dân cũng như bác học- từ điệu hò câu hát mộc mạc ở miền quê, đến những khúc ngâm, thể truyện của các tác gia, tình yêu vẫn là đề tài được nhiều người ưa chuộng, giới sáng tác cũng như giới thưởng ngoạn.

Đề tài tình yêu trong văn học rất phong phú. Từ những mối tình được truyền tụng trong dân gian như Thoại Khanh-Châu Tuấn, chuyện tình Trương Chi-Mị Nương lãng mạn hiền hòa đến những mối tình bi thương dang dở như Kim Trọng-Thúy Kiều, Hạnh Nguyên - Mai Sinh, pha lẫn chút hương vị tiên giới như chuyện tình của Giáng Kiều - Tú Uyên hay đượm chút thần thoại ly kỳ như chuyện tình giữa Sơn Tinh, Thủy Tinh và nàng Mị Nương… tác phẩm nào cũng xây dựng trên những câu chuyện tình.

Vào thế kỷ 18, văn học Việt Nam phát triển về cả chất và lượng. Các nhà văn học sử mệnh danh đây là „thời kỳ văn học phát triển[1]“ bởi sự ra đời rầm rộ của nhiều tác giả, tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm viết về tình yêu mang những nội dung mới lạ, khởi sắc hơn những thời kỳ trước đó rất nhiều. Chúng ta có thể kể đến truyện Phan Trần, Tống Chân Cúc Hoa, Nhị Độ Mai, Bích Câu kỳ ngộ, Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm…để rồi đến đầu nửa thế kỷ 19 xuất hiện kiệt tác „Truyện Kim Vân Kiều“ của Nguyễn Du nổi danh là „đệ nhất tài tử„trong làng văn học. Nhiều tư tưởng mới mang tính phản kháng đã dần dà xuất hiện trong thời kỳ này, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ trong tình yêu. Từ ý hướng muốn thoát ra khỏi những ràng buộc khắt khe của các định chế xã hội, của luân thường đạo lý, đến ý muốn vượt qua quan niệm giai cấp, chối bỏ lề thói „môn đăng hộ đối“ trong tình yêu và hôn nhân … cho ta thấy diện mạo của thời kỳ văn học này đã thay đổi.

Tuy nhiên các nhà văn, nhà thơ ngày trước khi viết về tình yêu, đa số chỉ mượn những chuyện đã lưu hành trong dân gian hay những mối tình trong thơ văn của Trung Hoa rồi phô diễn lại, nhân thể gởi gắm thêm chút tâm tình của mình. Ít có ai mạnh dạn đem cuộc tình của mình phơi bày cùng người đọc, dẫu đó là những hạnh phúc hay là những đau thương khắc khoải của chính lòng họ.

Truyện Kiều của Nguyễn Du là truyện có nguồn gốc từ đời nhà Minh bên Trung Hoa:

Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng, hai Kinh vững vàng.

Truyện Nhị Độ Mai là truyện thuộc về đời Đường:

Truyện ngoài xem Nhị Độ Mai,
Nhà Đường truyền vị đến đời Đức Tông.

Hoặc truyện Phan Trần:

Thấy năm triều Tống Tĩnh Khang,
Một chàng Hòa quận, một chàng Đàm Chu.

Còn những truyện được lưu truyền trong nhân gian như Trương Chi-Mỵ Nương thì họ kể, ví như : Ngày xửa, ngày xưa, có anh Trương Chi…

Nhưng cũng vào thời kỳ này, văn đàn Việt Nam đã có hai nhà thơ sống say đắm trong tình yêu và đã sử dụng thi ca để ngợi ca tình yêu của họ.

Họ là những người muốn được yêu và muốn vượt khỏi vòng lễ giáo khắt khe của xã hội.

Họ yêu nhau dẫu có sự ngăn cản của gia đình. Nhưng vì không thể lấy chữ Tình để thắng lướt niềm Hiếu đạo của kẻ làm con, lại càng không muốn phụ bạc với người yêu, tình yêu của họ đã đưa đến thảm cảnh xót xa.

Họ là những nhà thơ, nhưng thi ca với họ không chỉ là phương tiện để ngâm ca suông trong thú giải sầu mà còn là chút Hương, chút Gió trao gởi tâm tình của mình cho người mình yêu.

Họ đã sống, yêu và viết cho tình yêu.

Họ cũng đã chết bởi tình yêu.

Những con người nòi tình đó là: PHẠM THÁI- TRƯƠNG QUỲNH NHƯ

Mối tình của Phạm Thái Trương Quỳnh Như là một mối tình đẹp, đầy thi vị như những cuộc tình thường được ca ngợi trong thi ca hay trong tiểu thuyết.

Riêng về mặt văn học, mối tình Phạm Thái -Trương Quỳnh Như lại mang một giá trị đặc biệt. Đó là chứng tích của tình yêu tự do và lãng mạn trong thời kỳ văn học cổ điển của nước ta vào đầu thế kỷ 19.

Điều đó có thể thấy rõ qua cuộc đời cũng như thi ca và tiểu thuyết của chính các đương sự đã để lại, đặc biệt qua tác phẩm Sơ Kính Tân Trang[2] (SKTT) của Phạm Thái viết về mối tình của chính ông với Trương Quỳnh Như.



PHẠM THÁI- TRƯƠNG QUỲNH NHƯ- NHỮNG KẺ TÀI HOA

Phạm Thái Trương Quỳnh Như là những trang thanh niên nam nữ nổi tiếng tài hoa.

Phạm Thái còn có tên là Phạm Phụng[3], sinh năm 1777, quê ở làng Yên Thượng, huyện Đông Ngàn, nay thuộc Từ Sơn Bắc Ninh. Thái là con của Thạch Trung Hầu[4], một cựu thần của nhà Lê, đã nhiều lần khởi binh cần vương chống nhà Tây Sơn nhưng thất bại.

Xuất thân từ một gia đình vọng tộc, lại ưa chuộng thi thư, Phạm Thái có lắm tài hoa. Từ phong thái tư chất khác người đến kiến thức uyên bác, làu thông không những về thơ văn mà cả Nho, Y, Lý ,Số… môn nào Phạm Thái cũng giỏi:

Hồng thưa rằng khách xa vùng,
Có chiều tuấn dật, có đồng thanh cao
Xem chiều mỹ khổ, mận đào,
Vốn người Kinh Bắc mà vào Thùy Dương.[5]

Đó là vẻ đẹp bề ngoài của Phạm Thái. Đẹp trai, thanh tú (mỹ khổ, mận đào…) nhưng không phải chỉ là vẻ đẹp của thể chất, của hình thức, mà còn toát lên dáng thanh cao của một chàng thư sinh hào hoa, phong nhã (tuấn dật, thanh cao.)

Dáng vẻ bên ngoài của Phạm Thái đã thế, còn tài năng của ông ta thì ít người sánh bằng :

Từ chương, phú lục văn thi,
Cung đao, kiếm mã mọi bề làu thông.
Nghề chơi tài tử lọt vòng,
Vang đàn thi bá, nổi vùng cầm tiên.
Cờ thần, rượu thánh nức tên,
Tiên bay, múa phượng, địch thiên gáy hoàng.
Nghề thuật số vốn tinh tường,
Gồm bên Tiên, Thích, đủ đường Lý, Y.[6]

Cứ như ông tự kể, thì Phạm Thái là con người tài hoa. Thật ra đó cũng không phải là một điều quá đáng. Sử và văn học sử không còn lưu lại nhiều tài liệu về ông ngoài cuốn Sơ Kính Tân Trang[7], cuốn tự truyện của ông và người tình Trương Quỳnh Như mà ông say đắm. Từ Sơ Kính Tân Trang và những bài phú, bài từ của ông còn để lại, không ai có thể phủ nhận thiên tài của ông trên lãnh vực thơ phú, thi từ.. Điều này chúng ta có thể thấy rõ hơn trong quá trình tìm hiểu cuộc tình lãng mạn của ông. Về những tài hoa khác, như những hiểu biết rộng rãi của ông về tướng số, y lý…khả năng vượt trội của ông về cầm kỳ thi tửu…Phạm Thái cũng tự chứng tỏ ông là con người sành sõi :

Phạm Thái viết về khoa địa lý, khi ông ta lo việc sứ sang ngôi mộ tổ :

Sửa sang một cuộc âm phần,
Hàm thư, Đan phượng lắm phần tinh hoa.
Minh đường, Chung tú thay là
Án Thai sơn trấn, trẩm Sa thuỷ chiền.[8]

Hoặc khi ông ta đề cập đến tướng số của chính ông và của Trương Quỳnh Như :

Về Phạm Thái :

Tử vi xem mới lạ thường,
Lộc quyền chiếu mạng, khúc xương giáp trì.
Âm dương lưỡng diện càng ghê.
Việt, Khôi ,Tử phủ đóng về thâm cung.
Còn e dương kiếp đà không,
Nửa trong vận chửa khỏi vòng truân chuyên.

(SKTT. 69-74)

Còn tướng số của Trương Quỳnh Như thì :

Chỉn e tướng số chưa yên,
Hay là vì chữ Hồng nhan quảy gàn
Hai cung Nhật, Nguyệt[9] thần quang,
Tài thông minh với văn chương rất kỳ
Song hiềm Phúc ấn, Tiêm đề[10],
E đường Thọ khảo kém bề phu quân.
Tiền định hoa tạ tàn xuân,
Hay phần quy ẩn, xấu phần tư cơ[11].

(SKTT.414-421)

Không những thi thư phú lục, lý số…Phạm Thái đã là người uyên bác, tài hoa, ông còn là người có chí khí anh hùng, giỏi võ nghệ.

Cuộc đời làm cách mạng, theo Cần vương trong giấc mộng dựng lại cơ đồ nhà Lê của ông là một minh chứng.

Phạm Thái vừa phảng phất vẻ hào hùng vừa lẫn lộn dáng tài tử như nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du :

Giang hồ quen thói vẩy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non song một chèo[12].

(K. 2173-2174)

Một trong những tài hoa khác trong bốn thú phong lưu mà người đời thường ca tụng “Cầm, Kỳ, Thi, Tửu, thì rượu là món sở trường của Phạm Thái. Suốt cuộc đời, ông là người bạn chí tình của rượu, bên cạnh bóng dáng Trương Quỳnh Như, nhất là sau khi Quỳnh Như đã chết. Trước những thất bại của phong trào cần vương, những mất mát của tình yêu, Phạm Thái trở thành người cuồng sĩ chỉ biết tìm vui trong chén rượu:

Sống ở dương gian đánh chén nhè,
Chết về âm phủ cắp kè kè.
Diêm vương phán hỏi rằng: -Chi đó?
-Be!

Phạm Thái tuấn tú tài hoa như vậy thì Trương Quỳnh Như cũng là một thục nữ mỹ miều, xinh đẹp. Quỳnh Như là con gái của Kiến Xuyên Hầu Trương Đăng Quỹ, em gái của Thanh Xuyên Hầu Trương Đăng Thụ, quê làng Thanh Nê, huyện Ý Yên, Nam Định. Từ dòng dõi “kim chi ngọc diệp”dưới mắt Phạm Thái nàng không chỉ là cô gái sắc nước hương trời, chim sa cá lặn mà còn là người thông minh xuất chúng, đã từng theo đòi kinh sử, thi thư:

Trương công là đấng nghiêm đường,
Vốn dòng ngọc điệp, tên nàng Quỳnh Thư.
Xuân hoa bậc ấy đang vừa,
Tuổi vừa đôi tám, phong tư lạ lùng.
Thước tầm phỏng dạng bằng ông,
Lam pha mày liễu, mỡ đông da gà.
Chiều cá nhảy, vẻ nhạn sa,
Mắt long lanh nguyệt, thức rà rà mây.
Má hồng môi thắm hây hây…
Khổ mê thược dược, thức say hải đường[13].

Nàng được cha mẹ cho ăn mặc như con trai để đi học. Với trí tuệ khác thường, Quỳnh Như học rất giỏi. Lớn lên nàng lại xinh đẹp mỹ miều. Vẻ đẹp của nàng khiến chim sa cá lặn (chiều cá nhảy, vẻ nhạn sa) mắt sáng trong hiền dịu như ánh trăng (mắt long lanh nguyệt) tóc mềm mại lả lướt như những đám mây (thức rà rà mây). Má môi nàng hồng thắm hây hây…Với dung nhan đó thì đến cả hoa lá cũng phải mê say nàng:

Khổ mê thược dược, thức say hải đường.

So với sắc đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều mà Nguyễn Du ca ngợi:

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhương màu da.

Hay là:

Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Vẻ đẹp của Quỳnh Như đâu có kém gì!

Về thi ca của Trương Quỳnh Như, như chúng ta biết, nhờ được theo đòi kinh sử lại thêm đa tài, Quỳnh Như cũng đã sáng tác thơ ca. Chúng ta đã từng biết đến sự nghiệp thơ ca của các nữ sĩ như Ngọc Hân Công Chúa, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, nhưng chúng ta cũng còn có Trương Quỳnh Như, bậc nữ lưu trong giai đoạn đầu của thế kỷ 19.

Thơ ca của Trương Quỳnh Như để lại không nhiều. Ngày nay chúng ta biết được một phần lớn là các bài thơ, bài Từ, có liên quan với mối tình của nàng với Phạm Thái. Tuy ít ỏi, nhưng đó là những châu ngọc quý báu đối với giai đoạn văn học này, nhất là trong giới nữ lưu.

Phạm Thái-Trương Quỳnh Như là những trang nam nữ tài hoa và nhiều cao vọng. Mộng cần vương của Phạm Thái cũng chính là mơ ước của những trung thần bất sự nhị quân trong gia đình họ Trương:

Sông trôi đất Bắc in dòng đỏ
Núi đứng trời Nam nhuộm vẻ thanh.
Khúc khải hoàn ca rồi mạnh mẽ
Phòng tiêu đầm ấm rạng ngày xanh!

Ngoài mộng đồ vương, Phạm Thái-Trương Quỳnh Như còn say mê thú giang hồ phiêu lãng, ngao du đây đó, thăm viếng nhưng danh lam thắng tích trong vùng.

Phạm Thái đã từng:

Trãi qua Dục Thúy[14],Thần Phù[15],
Kìa cung Giáng Hạc, nọ chùa Ngự Loan.
Sáng Bích Đồng, tối tràng An,
Có đền Nhị Đế, có hang Cửu Tằng…

Trương Quỳnh Như cũng đã viếng thăm chùa này, đền nọ. Khi lên Non Nước, lúc xuống Đồ Sơn: Thăm Chùa Non Nước

Trèo lên Dục Thúy thăm chiền,
Non xanh nước biếc cảnh tiên dưới trần.
Thướt tha mây trắng một làn,
Như buông bốn phía cánh màu bạch sa.
Chim hót véo von chào khách,
Cỏ thơm hớn hở chào ai,
Gió thu rung động mấy cành mai,
Khêu gợi hồn thơ lai láng.
Cầm bút đề lên thạch tảng,
Một bài cổ tích cảm hoài.
Nào người chiến sĩ kẻ văn tài,
Khôn hỏi nước non đâu tá?
Trương Quỳnh Như

Bước chân của Phạm Thái thuở giang hồ đã đi gần khắp những đền đài thắng tích của miền Bắc. Nào Dục Thúy Thần Phù, nào Bích Động Tràng An, nào chùa Hương Tích, nào bể Đồ Sơn. Nào qua Phật Tích, nào đến Hùng Vương…và lúc mang mộng cần vương lại lên Kinh Bắc, Lạng Sơn, lúc xuôi về Thanh Nê, Nam Định, đâu đâu cũng đã có dấu chân ông.

Phạm Thái - Trương Quỳnh Như là những con người tài hoa và nhiều ước vọng.

Nhưng xưa nay mấy ai tài hoa mà nên vinh hiển, mấy ai ước vọng cao xa mà được phỉ nguyền? Trời xanh vẫn bày nên những ngang trái. Câu “Tạo vật đố toàn” vẫn là một định luật xưa nay. Khách hồng nhan thường phải truân chuyên và kẻ anh tài lại hay bạc mệnh. Đó phải chăng là những quy luật của tạo hóa, để Nguyễn Du khi mở đầu truyện Kiều phải bật lên lời than:

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ “tài” chữ “mệnh” khéo là ghét nhau!

Hay Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm:

Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào!

Phạm Thái Trương Quỳnh Như là những con người tài hoa và nhiều cao vọng. Họ đã có những ngày tháng thật hạnh phúc bên nhau. Những tưởng mộng ước của họ sẽ thành tựu. Nhưng không ngờ tài hoa và mộng ước ấy chỉ tạo nên những ghét ghen của trời già để rồi cuộc tình của hai người phải dở dang và cả hai đã phải lìa bỏ cuộc đời khi tuổi còn xanh, rất xanh!



MỐI TÌNH PHẠM THÁI-TRƯƠNG QUỲNH NHƯ: NHỮNG NGÀY THƠ MỘNG

Mùa Xuân năm Ất Dậu (1789) Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Lê Chiêu Thống và Hoàng Quý Phi phải chạy trốn sang Tàu. Triều đại Nhà Lê sau mấy trăm năm trị vì ở Thăng Long chấm dứt. Triều đại Tây sơn thay thế. Nhưng cũng từ đó không thiếu các quan lại sĩ phu luyến tiếc triều đại cũ không chịu hợp tác với triều đình mới. Họ luyến tiếc vì truyền thống của Khổng Mạnh “trung thần bất sự nhị quân”, tôi trung không thờ hai chúa. Họ là những Trần Danh Án[16], Lê Quýnh[17], Hoàng Quang[18], Phạm Thái…Nhưng cũng có thể họ luyến tiếc vì gia đình họ, đã nhiều đời hưởng ơn vua lộc nước. Đó là trường hợp của Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan…

Một trong những sĩ phu nổi tiếng của Bắc Hà đã ba lần khôn khéo từ khước lời mời ra hợp tác với Tây Sơn là La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp.

Dầu phu tử được Quang Trung Nguyễn Huệ trọng vọng, lúc thì coi như Y Doãn, Chu Công; lúc thì lời lẽ thống thiết, ý thư trân trọng ”...Mong phu tử nghĩ đến thiên hạ với sinh dân,vụt dậy đi ra, để quả đức có thầy mà thờ,cho đời này có người mà cậy”…[19] lúc thì sai cả quan Hình bộ thượng thư mang thư và lễ vật tới, lời lẽ khôn khéo “ Nay xét ý Phu tử, thấy có ba lẽ này mà không thèm ra chăng : Anh em quả đức nguyên chỉ trơ trọi là một tụi ấp trưởng, nổi lên ở phương Tây[20]… Phu tử vẫn từ chối.

Giải thích về việc ba lần cụ từ chối ra hợp tác với nhà Tây Sơn, giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết: “… khinh Tây Sơn là tụi ấp trưởng nổi lên, La sơn phu tử chắc cũng nghĩ thế thật, nhưng thế nào cũng chối…Còn có lẽ thâm áo mà hai bên cùng biết, là cụ chỉ nhận có vua Lê là chính thống mà thôi.”[21]

Cha của Phạm Thái, Thạch trung Hầu, cũng theo tiếng gọi của “Cần vương” nhưng thất bại (1796). Ngày ấy, Thái vừa tròn hai mươi tuổi. Bao đời hưởng ơn vua lộc chúa, Phạm Thái muốn tiếp nối con đường của cha anh, theo đuổi mộng cần vương, xoay lại cơ đồ cho nhà Lê.

Không phải sĩ phu Bắc Hà ai ai cũng có lòng luyến tiếc nhà Lê. Chương Lĩnh hầu Hữu Hộ Lượng[22] là một trong số những người sớm ra cộng tác vối triều đình mới. Lượng còn làm bài phú “Tụng Tây Hồ” ca ngợi Thăng Long nhưng thực chất là muốn gián tiếp thời thịnh trị của triều đình Tây Sơn. Đọc được bài phú của Lượng, Phạm Thái giận lắm. Ông ta đã viết trả lại bài “Chiến Tụng Tây Hồ Phú”. Có lẽ đây là trường hợp bút chiến hy hữu trong văn học cổ Việt Nam. Ta hãy nghe Phạm Thái nói rõ nguyên do và thời điểm mà ông viết nên bài phú:

“Năm Canh Thân (1800) mù Hạ, ta đến chơi với bạn ở Tràng An[23] nghe bạn ngâm bài Tụng Tây Hồ Phú. Hỏi ai làm ra bài ấy mà hay thế? Bạn rằng: Chương Lĩnh Hầu Hữu Hộ Lượng làm ra. Ta rằng: Chao ôi, Hữu Hộ Lượng à? Xưa hắn làm tôi triều Lê, nay ra làm ngụy, lại còn tụng Tây Hồ mà không thẹn mặt! Ghét đứa nịnh làm sao!

Nhớ xưa có bài thơ Chiến cổ, nay nhân bỉ kẻ làm bài tụng, ta cũng làm bài chiến tụng để góp một chút trò vui cho đời.”[24]

Phạm Thái đã chọn con đường mà ngày đó nhiều sĩ phu đã chọn. Mang trong mình dòng máu thần tử của nhà Lê, Phạm Thái tiếp nối ý chí của cha mình dầu ngày ấy ông còn rất trẻ.

“Căm gan tóc dựng đứng lên
Tuốt gươm chém án ngâm thiên ca rằng:
Làm trai cho thỏa chí trai
Trong trần ai có lụy ai tầm thường
Tu mi tỏ mặt trượng phu
Đem trung hiếu trả thù non sông.»

Phạm Thái tuy rằng mượn tiếng ngao du sơn thủy mà trong lòng vẫn nung nấu ý chí cần vương, tìm đồng chí để trả ơn vua nợ nước, cũng như để trả thù cho cha.

Lúc đầu Phạm Thái gặp Nguyễn Đoàn đang đóng binh ở Yên Thế, nhưng không được Đoàn tin dùng. Phạm Thái lại đang bị quân Tây Sơn truy nã gắt gao, ông đành phải nương bóng nhà chùa với pháp hiệu Phổ Chiêu.

Trong một chuyến công tác nhằm đưa Hoàng phi Kim lên Tuyên Quang để chuẩn bị sang Tàu, Thái đã gặp Thanh Xuyên Hầu Trương Đăng Thụ, một đồng chí cần vương đang được Tây Sơn giao trấn Lạng Sơn. Thụ chờ ngày làm nội ứng cho cuộc khởi nghĩa Cần vương. Nhưng Thụ đang bị Tây Sơn nghi ngờ, và cuối cùng bị đầu độc mà chết[25]. Linh cửu đưa về quê tại làng Thanh Nê, Nam Định.

Phạm Thái theo linh cửu của bạn về đó để điếu tang người đồng chí gọi là chút nào đền ơn tri ngộ. Tại đó, cha của Trương Đăng Thụ là Kiến Xuyên Hầu Trương Đăng Quỹ thấy Thái là người tài hoa, có chí khí nên ái mộ và lưu giữ Thái ở lại làm gia sư.

Phạm Thái phần quý mến bạn, phần gia đình bạn khẩn hoãn lưu giữ, lại gặp lúc đang long đong chưa biết đi đâu nên nhận lời ở lại, trút áo nhà sư để khoác áo thầy đồ. Chẳng ngờ thời gian này chính là lúc định mệnh đã sắp bày cho tương lai cuộc đời của ông và cô em gái của bạn, Trương Quỳnh Như.

Ngồi ghế gia sư ở nhà bạn, gặp em gái bạn vừa là khuê các vừa thông minh, thi thư làu thuộc, hai bên rất là tương đắc. Tình cảm giưa hai người bắt đầu phát sinh. Trai tài gái sắc đã phải lòng nhau. Cả hai bắt đầu làm thơ tỏ tình trao gởi cho nhau.

Dưới mắt của Quỳnh Như, Phạm Thái là trang anh tài trong mộng. Chí cả hiên ngang, sẵn sàng đi vào hiểm nguy để đền ơn vua, trả nợ nước. Thái là trang tài tử, giỏi thơ văn, thích xướng họa, lại được lòng cảm phục của cha nàng. Phạm Thái đã lọt vào mắt xanh của nàng.

Trái tim của cô gái khuê các ngày nào cũng ấp ủ một tình cảm, một « mối tương tư sầu mộng », đằng đẳng chờ đợi từng giờ, từng ngày một bóng hình nào đó, thì bây giờ bóng hình đó đã hiện ra bằng xương bằng thịt trước mắt.

Bài thơ « Vịnh giờ Sửu » của Quỳnh Như ít nhiều giúp ta hiểu được tâm trạng chờ đợi trong cô đơn của nàng :

Đằng đẳng canh dài khá cách đêm,
Đìu hiu giờ Sửu giấc nào êm,
Tiếng hàn chiêm nện hơi sương lạnh,
Trận hỏa thang nung dạ sắt mềm.
Eo óc giục người gà nội quạnh,
Véo von gọi khách dế bên thềm.
Vắt tay ngang mặt mong cho sáng,
Thấy sáng mà sầu đã lại thêm.

Nửa đêm (giờ Sửu- từ một đến ba giờ sáng) thức giấc không ngủ được, cô gái đang độ xuân thì đôi tám như Quỳnh Như lo nghĩ điều gì? Cô đang sống trong nhung lụa của gia đình quyền quý, cha và anh là những bậc đại quan. Tuổi hoa niên của cô tràn trề sức sống, vậy mà Quỳnh Như vẫn cảm thấy đằng đẳng, đìu hiu, vắt tay chờ sáng. Nhưng thấy sáng mà sầu đã lại thêm. Quỳnh Như thiếu vắng điều gì nếu không phải là bóng một chàng trai, nếu không phải là tình yêu?

Thời gian mỗi ngày mười hai giờ (giờ ta) đối với nàng toàn là quảng thời gian chờ đợi và buồn tủi. Hoặc là sáng sớm, hoặc là nửa đêm hoặc khi ánh tà dương lần khuất sau núi, từng giờ, từng giờ, nàng chỉ cảm thấy trống vắng, cô đơn:

Dậu về buổi tối tủi duyên thầm,
Bỗng thấy như ai đã lại nhầm.

Là cô gái tài sắc lại thêm tâm tình phóng khoáng, cởi mở, lòng rộn ràng muốn yêu và được yêu, thì những khuôn phép ràng buộc của lễ giáo gia đình đã trở thành chật hẹp, tù túng cho đời sống tình cảm của nàng. Sự xuất hiện của Phạm Thái trong hoàn cảnh đó như nguồn suối trong mát cho trái tim khao khát tình yêu của Quỳnh Như.

Ngày qua ngày, khi ánh mắt khi nụ cười, khi đổi trao vài câu thăm hỏi, khi gởi tặng một bài phú, bài thơ…hai người đã hiểu được tình cảm của nhau. Thơ ca lúc bấy giờ không chỉ là thú ca ngâm suông mà đã là con chim xanh mang đến cho người yêu tất cả tình cảm trìu mến của mình.

Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e[26].

Phạm Thái có hẳn một bài từ[27] nhan đề « Gởi Quỳnh Hương » để tỏ tình yêu của ông đối với Quỳnh Hương. Có lẽ đây là lá thư tình đầu tiên còn lưu lại trong văn học cổ: Gởi Quỳnh Hương,

Từ lúc thiềm cung trộm dấu hương,
Dễ xui lòng khách mối sầu vương,
Gió thông réo rắt giong đàn oán,
Trăng hạnh chênh vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên run rủi phận,
Thì xin ân ái vẹn trăm đường !
Phong lưu đôi lứa đà ai dễ,
Bụi tục chi cho bợn lóa gương.

Nếu duyên phận của đất trời đã sắp bày cho hai ta được gặp gỡ nhau, yêu thương nhau và quyến luyến nhau như thế này, thì xin nàng hãy cùng ta nên duyên chông vợ cho trọn vẹn niềm ân ái !

«Nếu đã tình duyên run rủi phận,
Thì xin ân ái vẹn trăm đường !»

Lời tỏ tình của Phạm Thái rõ ràng rành mạch đến như thế là cùng.

Trong một bài thơ khác, Phạm Thái viết :

Ai lên Tử các, Thanh vân
Hỏi thăm ả Tố chiều xuân thế nào.
Chiều Xuân một khúc gởi trao
Cậy lòng dì gió đưa vào xuân cung.

dần dà, lời tỏ tình thân mật tình tứ hơn :

May thay một hội tuơng kỳ,
Đã bên tình phận lại bề phong lưu
Câu hảo cầu đợi người thục nữ
Năm mây phong đôi chữ đồng tâm

rồi thì nói thẳng:

Bây giờ mượn gió cung Đằng[28]
Vì duyên đưa mối Xích thằng[29] lại đây.

Đã nói rõ, nhưng Phạm Thái vẫn tỏ ra ngần ngại:

Rắp hẹn hò ngồi hoa đứng tuyết,
Lòng còn e khôn biết nói năng.

Yêu nàng nhưng chưa dám bày tỏ, lòng muốn gặp gỡ để tâm sự chuyện trò nhưng vẫn ngại ngùng sợ tiếng thị phi. Thơ đã giúp Phạm Thái nói được điều khó nói như trường hợp Kim Trọng dò ý Kiều:

Tiện đây xin một hai điều,
Đài gương soi thấu dấu bèo cho chăng?

Lần lửa qua tháng ngày quen biết, tình yêu của hai người ngày càng say đắm. Thơ của hai người gi ờ đây là những bức thư tình trao gởi cho nhau, có khi bày tỏ niềm thương nhớ, khi là nỗi mong ước. Người xướng kẻ họa, thật là tương đắc:

Nếu Phạm Thái lo phiền ngày dài quá, như cả năm không gặp khi trướng gấm phòng loan cứ đóng im ỉm không thấy bóng Quỳnh Như:

Im ỉm mấy phong gấm bức
Điểm một ngày dằng dặc nhường niên.

Thì Quỳnh Như cho rằng đó chỉ là sự im lặng đợi chờ:

Im ỉm màn sương đợi khách
Thênh thênh cửa nguyệt chờ ai
Giai nhân tài tử mấy lăm người
Trạnh tưởng tâm tình thêm rối.

Thấy Phạm Thái ngày càng say đắm với chữ tình mà bỏ quên lý tưởng của mình, trong bài thơ họa bài “Đề tranh Tố Nữ” của Phạm Thái, Trương Quỳnh Như đã rắn rỏi khuyên người tình đừng vì tình cảm mà quên nghĩa lớn:

Véo von bên liễu tiếng hoàng oanh
Khuyên khách đừng quên chí chiến tranh
Giữa lúc nước nhà đang hoạn nạn
Phải khi tráng sĩ vướng tơ tình.
Sông trôi đất Bắc in dòng đỏ
Núi đứng trời Nam nhuộm vẻ thanh.
Khúc khải hoàn ca rồi mạnh mẽ
Phòng tiêu đầm ấm rạng ngày xanh!

Khi đất nước thanh bình rồi, khi chí lớn đã thành tựu, lúc đó lo gì hạnh phúc của lứa đôi!

Phạm Thái và Trương Quỳnh Như đang có những tháng ngày hạnh phúc. Hạnh phúc đó hiện rõ qua lời thơ của Trương Quỳnh Như, khi nàng họa lại bài “Ngày Xuân uống rượu” của Phạm Thái.

Họa bài “Ngày Xuân Uống Rượu.”

Rực rỡ trời Xuân ánh thái dương
Xuyên qua chén rượu nhuốm màu vàng
Hoa Xuân kín đáo thầm phong nhụy
Men rượu nồng nàn ngát tỏa hương
Má phấn say hương hây hây đỏ
Thơ tình thiếu rượu rối vấn vương
Tìm vần trong rượu, vần không thấy,
Chỉ thấy Xuân đầy vẻ diễm quang.

“Má phấn say hương hây hây đỏ.” Quỳnh Như say hương rượu hay say hương tình, hay cả hai?

Tình yêu của Phạm Thái Trương Quỳnh Như không qua khỏi đôi mắt của gia đình. Thân phụ Quỳnh Như vì mến tài Phạm Thái có ý muốn gả con gái cho chàng, chỉ khuyên Thái về quê tìm người mai mối để tránh tiếng đàm tiếu của họ hàng và gia nhân. Phạm Thái nghe lời.

Được tin Phạm Thái sắp về quê, Quỳnh Như không khỏi buồn lo. Nàng đưa tiễn người yêu bằng một bài thơ gởi gắm biết bao nhiêu tình cảm và lòng mong đợi:

Tiễn ông Chiêu Lỳ về quê.
Sắt đá lòng này đã biết chăng?
Xe duyên nay mươn gió cung Đằng.
Vườn đào sực thấy oanh đưa tín,
Dặm liễu ai xui yến cách chừng.
Vàng ngọc nên chăng cùng một ước,
Nước non thề đã có đôi vầng.
Lời này dặn với tri âm nhẻ,
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng.

Phạm Thái, Trương Quỳnh Như đã cùng nhau ứơc thề. Làm sao hai người có thể phụ lòng nhau được?

Không ai trong hai người trái lời nguyền ước. Nhưng chẳng ngờ buổi chia tay lần này cũng là lần chia tay vĩnh viễn! Trời già không tạo ra niềm oan trái mà mối duyên tình của Phạm Thái và Trương Quỳnh Như cũng chẳng thành.

Trái với ý muốn của thân phụ Quỳnh Như, thân mẫu nàng không bằng lòng gả nàng cho Phạm Thái. Bà không yên lòng khi đứa con gái của bà lại trở thành vợ của một tay quốc phạm, đang ngày đêm trốn tránh quan quân của Triều đình, một thầy tu giả danh, một kẻ lông bông, tứ cố vô thân, không có nơi nương tựa. Làm sao bà có thể gả con gái yêu của bà, một cành vàng lá ngọc cho anh chàng mà tương lai đầy bất trắc như vậy? Với bà, bà không cần biết, Phạm Thái có hay không có tài hoa, giàu hay nghèo nghị lực, chí khí. Trước mắt bà, Phạm Thái là gã đàn ông say sưa, nghèo khó, vô dụng, chẳng có một nơi để náu thân. Vì thế bà ép duyên Quỳnh Như cho anh chàng Trịnh Nhị, con nhà phú hộ nổi tiếng là Thạch Sùng của Nam Định hồi bấy giờ.

Cũng như suy nghĩ và lo lắng của nhiều bà mẹ khác, bà tin rằng chỉ người đàn ông ấy mới đem lại hạnh phúc và yên ổn cho con gái bà.

Thế nhưng bà đã lầm! Bà không thể ngờ rằng đứa con gái mà bà dày công mang nặng đẻ đau, đã từng làu thuộc thi thư lễ nghĩa của thánh hiền lại là một con ngựa chứng trong vòng lễ giáo.

Người con gái ấy đã chẳng chịu theo thói thường “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” mà trong tâm hồn nàng đã có sẵn một quan niệm mới về tình yêu và hôn nhân. Tình yêu phải có tự do và hôn nhân không thể là điều cưỡng ép.

Bị mẹ ép gả cho tên nhà giàu Trịnh Nhị, Quỳnh Như đau khổ lắm. Nàng đã có bao giờ tiếp xúc với anh nhà gíàu đó đâu? Nàng có quen biết, yêu thương chàng trai ấy đâu? Một tâm hồn mộng mơ thi phú như nàng về làm vợ người chồng xa lạ như thế làm sao có hạnh phúc? Lại nữa, vâng lời mẹ để lấy anh chàng này làm chồng thì mai sau nói năng thế nào với Phạm Thái? Lời thề lúc chia tay của hai người đang còn đó:

“Vàng ngọc nên chăng cùng một ước
Nước non thề đã có đôi vầng
Lời này dặn với tri âm nhẻ
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng”.

Không nghe lời dạy bảo của Mẹ, thì hóa ra nàng là đứa con bất hiếu, vâng lời mẹ thì phụ bạc người yêu. Tâm trạng của nàng lúc bấy giờ cũng tương tự như tâm trạng của Kiều trước việc Kiều phải bán mình chuộc cha:

Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn?

Cả hai con đuờng đó, không có con đường nào cho nàng chọn lựa. Nàng chọn con đường thứ ba cho vẹn nghĩa đôi đường: chọn cái chết. Chỉ có chết mẹ mới hiểu được lòng nàng. Chỉ có chết nàng mới đáp đền được tình sâu nghĩa nặng của Phạm Thái.

Trương Quỳnh Như chọn con đường quyên sinh!

Hỡi ơi, một tiếng thơ mai,
Nợ hồng trần để lụy người hồng nhan!

Từ khách tình si đến chàng cuồng sĩ:

Khi Phạm Thái trở lại Thanh Nê thì Trương Quỳnh Như đã chết. Ông đau xót vô ngần. Tiếc thương người yêu, xót xa cho số mạng của nàng, Phạm Thái khóc than Quỳnh Như thảm thiết:

“Kể từ ngày tha hương gặp gỡ,
Chữ chung tình để nợ cho nhau,
Ái ân mấy nỗi xưa, sau,
Lời vàng đá ấy dễ hầu đơn sai.
Túi tơ hồng trách ai xe mối
Đến nửa chừng bổng nới tơ ra,
Căm gan một ả Trăng già,
Trêu nhau chi mãi chẳng tha thế này!”

rồi ông ta chua xót tự hỏi:

“Ấy vì mình hồng nhan bạc phận?
Hay vì ta gặp phận đa gian?
Cho nên lắm lúc nhỡ nhàng,
Dẫu sao thời vậy đã cam một bề[30].”

Trước mộ nàng, Phạm Thái còn đọc một bài “khốc văn” thống thiết:

“Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác ấy bởi vì đâu? Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẫn trăng rằm!

Lại có điều đau đớn thế nhỉ! Nhà huyên ví có năm có bảy, mà riêng nàng đeo phận bạc, thì lửa nguội nước vơi còn có lẽ. Thương hại thay, hoa có một cành, tuyết có một quãng, nguyệt có một vầng, mây có một đóa. Thân là thân hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy đôi mươi năm làm một kiếp mà nghim nghỉm chốn non Bồng nước Nhược, chút gì không đoái đến cõi phù sinh!

Ví dù mà tiên thù với tục, sao xưa kia vâng mệnh xuống trần chi? Nay đã nguyện một thân cho vẹn kiếp, thì ba vạn sáu ngàn ngày sống cho đủ lệ: nọ xuân huyên, kìa phu tử, góp với trần gian không chút hận, rồi sẽ rong chơi chín suối, cớ sao ri6ng bỗng vội vàng chi?

Ôi! chữ mệnh hẹp hòi, chữ duyên suồng sã, những như thân gia ấy, tình cảnh ấy,ngược xuôi kia cũng ngậm ngùi cho. Huống ta cùng nương tử, tuy chẳng thân kia thích nọ, nhưng tình duyên chừng ấy, cũng là một chút cương thường: dẫu rằng kẻ đấy người đây, song ân ái bấy lâu nay, đã biết bao nhiêu tâm sự.

Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi thời cho nấn ná nhân duyên. Mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh.

Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm, chua xót cũng vì đâu? Não nuột cũng vì đâu?

Nay qua nấm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, sụt sùi hai hàng tình lệ, giải bày một bức khốc văn, đốt xuống tuyền đài, tỏ cùng nương tử.[31]”

Rồi cũng từ ngày đó, Phạm Thái lặng lẽ ra đi, nay đây mai đó, dạo chơi khắp danh lam thắng cảnh, gởi lòng cho nước biếc non xanh “khi dãi gió dầu sương,trãi tấm gan vàng cùng non bạc, khi câu thơ chén rượu, dành bầu máu nóng để tưởng nhớ người xưa![32]”

Hay đâu, anh hùng tráng sĩ xưa nay không sợ gươm giáo nơi chốn kiếm cung, lại phải mềm lòng trước người nhi nữ!

Phạm Thái từ ngày gặp Quỳnh Như thì khí phách anh hùng đã vơi đi gần hết, tiếp theo cái chết của người tình, Thái chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện nước non. Ngày ngày ông tìm vui bên chén rượu, chán nản thế sự, sống cuộc đời vô định bi quan. Bên cạnh đó, thời thế cũng thay đổi, Nhà Tây Sơn cũng tàn lụi, Nhà Nguyễn Gia Long tiếp nối thống nhất từ Nam ra Bắc. Phong trào “ cần vương” không còn nữa:

“Năm bảy năm nay cứ loạn ly”
Cũng thì duyên phận cũng thì thì,
Ba mươi tuổi lẻ là bao nả,
Năm sáu đời vua thấy chán ghê!
Một tập thơ dày ngâm sang sảng,
Vài nai rượu kếch ních tì tì,
Chết về tiên Bụt cho xong kiếp
Đù ỏa trần gian sống mãi chi!”

Ông mất năm 1813 tại Thanh Hóa, khi vừa mới ba mươi bảy tuổi xuân.



CHỨNG TÍCH CỦA TÌNH YÊU LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC THẾ KỶ 18

Tự do trong tình yêu và hôn nhân:
Mối tình của Phạm Thái-Trương Quỳnh Như trước hết là một biểu hiện, một chứng tích của tự do trong tình yêu và hôn nhân.

Tình cảm tự nhiên và chân thật của hai người đến với nhau không hề chịu một sự sắp bày, hướng dẫn nào của bên ngoài, kể cả của mẹ cha. Những lời thơ tỏ tình của Trương Quỳnh Như mạnh dạn và tự nhiên đến độ táo bạo, ta có cảm tưởng như mới gần đâu đây, những năm ba mươi của đầu thế kỷ, thời kỳ của “Tố Tâm”…

Giai nhân tài tử mấy lăm người,
Trạnh tưởng tâm tình thêm rối.

hoặc:

Nhủ đông hoàng mặc lòng khu xử
Chớ đem xuân suồng sổ trần gian.

Hay táo bạo hơn:

Cậy ả Hằng vì ta xe mối,
Xe thì xe chớ nới tơ ra.


Cuộc tình của hai người là sự kết hợp tròn đầy và tự nguyện của hai tấm lòng tha thiết, chân thành tìm đến nhau, là sự chọn lựa của mỗi cá nhân cho tình cảm riêng tư của mình, không bị thúc đẩy hay hướng dẫn bởi gia đình hoặc các định chế xã hội.

Đó là một đóa hoa lạ đầy hương sắc đã nở ra trong vườn hoa của xã hội Việt Nam trong thời kỳ mà tư tưởng Khổng Mạnh là những kim chỉ nam của đời sống, khi mà các luân lý và đạo đức của xã hội từ chối và kết án sự phô bày tình cảm gái trai trong chiều hướng tự do luyến ái:

Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thới tiết hạnh làm câu trau mình…

Biết bao thế kỷ trước, luân lý Khổng Mạnh đã nhân danh cho trật tự xã hội và sự tiến hóa của đạo đức để đề cao sự tôn trọng lý trí và chối bỏ tình yêu của con người. Chúng ta có thể tìm thấy trong sách vở những mối tình, những cặp vợ chồng mà đến ngày cưới vẫn chưa hề biết mặt nhau! Tất cả là sự chọn lựa, sắp bày của cha mẹ.

Tình yêu trai gái, vợ chồng đã bị giản lụơc và đồng hóa với một ít nguyên tắc nghĩa ân: “tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức.” Tính chất phức tạp, sinh động và tự do vốn là bản chất của tình yêu bị khắc nghiệt cấm đoán như những mầm móng của hổn loạn và thái hóa. Xã hội lên án những tình cảm tự do đó như những biểu hiện thiếu nết na, trăng gió, luông tuồng của người phụ nữ.

Trương Quỳnh Như đã có một cách sống và yêu ngược lại. Đó là một thái độ phủ nhận sự gò bó của các lề thói xã hội, cương quyết nói lên sự có mặt của nàng như một con người tự do.

Quan niệm sống và yêu của Phạm Thái Trương Quỳnh Như quá mới mẻ, táo bạo với xã hội đương thời, nếu chúng ta biết rằng hơn năm chục năm sau, chàng trai Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đã phải thảng thốt can ngăn Kiều Nguyệt Nga, không cho nàng xuống kiệu cảm ơn mình, chỉ vì lẽ “nam nữ thọ thọ bất thân” của lễ giáo Khổng Mạnh:

Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Tiểu thơ con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ?
Chẳng hay tên họ là chi,
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?

Quan niệm tự do trong yêu đương và hôn nhân đó sớm hơn cả thế kỷ nếu chúng ta đem so với những chủ trương của nhóm “Tự Lực Văn Đoàn“ vào đầu thế kỷ 20.

Trương Quỳnh Như bị ép gả cho anh chàng Trịnh Nhị nào đó, cũng tương tự như Loan bị mẹ ép gả cho Thân. Dầu không có tài liệu gì kể lại những đôi co giữa nàng với mẹ, nhưng chắc cũng tương tự như những gì Loan đã trình bày với bà Giáo, mẹ của cô ta, khi yêu cầu cha mẹ cho cô ta được tự do trong vấn đề hôn nhân:

“Vâng, thì xin mẹ để tùy con, và nhân thể mẹ để tùy ý con định có nên lấy chồng hay không nên lấy chồng. Con đã nhiều lần thưa với mẹ rằng, con không thể.”

Trước sự ngạc nhiên và giận dữ của mẹ, Loan cũng nhất định:

“Không, con không cho đó là chuyện chơi. Con cho là một chuyện quan hệ trong đời con, mà chỉ quan hệ đối với đời con thôi…”[33]

Trương Quỳnh Như chắc đã không nói với mẹ những lời lẽ “sỗ sàng” như vậy, nhưng những gì nàng nghĩ, nàng chịu đựng cũng không khác với Loan.

Trên một phương diện nào đó, Trương Quỳnh Như của thế kỷ 18 đã hơn hẳn Loan. Trương Quỳnh Như đã không cúi đầu nghe theo sự ép buộc của mẹ lấy người mình không hề yêu thương như Loan sẽ chấp nhận. Cuộc tình miễn cưỡng, gò ép đó không mang đến cho nàng hạnh phúc mà ngược lại chỉ là những giả dối, đớn hèn và coi thường nhau.

“Môi nàng hé mở, tỏ vẻ chán nản ghê tởm. Ghê tởm cho cái đời làm vợ giả dối của nàng, ghê tởm cho những đêm ái ân miễn cưỡng. Nàng không cần biết dến ái tình và không có quyền biết đến ái tình. Bổn phận của nàng là cái máy đẻ, thì nàng phải coi nàng như cái máy đẻ.[34]

Trong xã hội cũ, hôn nhân của con cái là vai trò của cha mẹ. Cha mẹ có bổn phận tìm kiếm và dạm hỏi người vợ hay chồng của con cái mình, sao cho tương xứng “môn đăng hộ đối” với gia đình mình. “Cha mẹ đặt đâu thì con ngồi đó”. Cha mẹ định đoạt tất cả và không cần biết con mình có chấp nhận hay không, nói gì đến chuyện thương yêu nhau, tìm hiểu nhau cho tâm đầu ý hợp!

Sự chọn lựa của cha mẹ nhiều khi lại nhắm vào quyền lợi hơn là tình cảm. Bà Giáo chọn Thân cho con gái mình, vì bà muốn trừ món nợ mà bà đang mắc bên gia đình Thân. Bà Án (trong Nửa Chừng Xuân-Khái Hưng) chọn con gái cụ Tuần phủ cho Lộc, con trai của bà cũng bởi lẽ đó:

“Quan Tuần còn trẻ, bước đường hoạn lộ còn dài. Sau này con tôi tất nương tựa vào bố vợ mới mong thăng quan tiến chức được. Nếu trái lại tôi để nó kết hôn với cô thì không những nó mất chỗ nương tựa mà nó cũng mang tiếng chơi bời bậy bạ, lấy người không xứg đáng, tránh sao được nốt xấu trong lý lịch.”[35]

Nhất Linh, Khái Hưng và nhiều nhà văn nhà thơ khác đã dày công cổ xúy cho tự do của tình yêu và hôn nhân. Hơn trăm năm về trước, Phạm Thái và Trương Quỳnh Như đã dấn thân vào cuộc sống và tranh đấu cho tình cảm của mình bằng chính hành động dẫn đến cái chết bi thảm của Quỳnh Như. Quỳnh Như đã mạnh dạn chối bỏ hôn nhân định sẳn, hẹp hòi, vô lý do mẹ ép đặt để tìm tới một ình yêu đích thực. Nhưng Quỳnh Như vẫn không thể vượt qua rào cản của “tam tòng, tứ đức”. Trương Quỳnh Như chỉ còn một con đường chọn lựa, chọn lựa cái chết!

Tìm lấy cái chết là một thái độ tự do thứ hai của Quỳnh Như trong cuộc dấn thân trọn vẹn cho Tình yêu. Giá trị cao đẹp và bi thảm của tình yêu đã lên đến đỉnh điểm qua cái chết này.

Cái chết của Quỳnh Như đã đưa nàng thuộc về Phạm thái một cách trọn vẹn, một gắn kết bất khả phân, vĩnh cữu và tuyệt đối.

“Tình yêu và sự chết vốn có một liên hệ thầm kín và mầu nhiệm” như nhà thơ Léopardi đã ca ngợi: “L´ amour et la mort sont frères”.[36]

Cái chết của Nastassia (trong L´Idiot), của Alisa (trong Khung cửa hẹp), của Roméo và Juliette hay gần đây hơn nữa, cái chết của cha Hà Vĩnh Duy (trong Tóc mây của lệ Hằng)… đã đưa họ thuộc về người yêu của họ một cách hoàn toàn và những mối tình đó trở thành bất tử.

Nastassia hoàn toàn thuộc về Rogédine cũng như Alissa là của Jérôme. Roméo và Juliette là cập nhân tình bất tử và Hà Vĩnh Duy là khuôn mặt đời đời của Tố Kim:

“Tôi biết rồi, từ nay chàng mới thuộc về tôi, hoàn toàn thuộc về tôi. Không một luật lệ nào, uy quyền nào dành nổi chàng của tôi nữa.”[37]

Tìm lấy cái chết là một chọn lựa giữa bao điều phải chọn lựa. Chết là một chọn lựa tự do, dẫu đó là một chọn lựa bi thảm. Đó là lúc đệnh mệnh dính chặc vào cuộc đời người tài hoa và cũng là lúc tuyệt vọng cùng tự do vào chung một vực thẳm.

Dẫu rằng nếu tình duyên của Quỳnh Như và Phạm Thái được trọn vẹn, thì có gì là bền chắc và vĩnh cữu của tình yêu trước cuộc đời đầy sóng gió và bất trắc. Tình yêu tự nó quá mong manh trước những tàn nhẫn và bất ngờ của cuộc đời.

Thế cho nên cái chết của Quỳnh Như dẫu là một bi thảm nhưng chính nó đã tạo nên những khả ái của mối tình lãng mạn này. Sự dang dở nhiều khi cũng là nét duyên dáng của tình yêu. Có lẽ vì thế mà nhà thơ Hồ Dếnh đã từng ca ngợi:

“Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau lơ lửng với nghìn xưa”[38]


Chứng tích của văn học lãng mạn:

Theo Đào Duy Anh thì “Lãng (
) là sóng đánh tràn; Mạn () là nước chảy tràn bờ. Trong tình cảm thì lãng mạn là không có gì bị kiềm chế, ràng buộc. Trên mặt văn học, lãng mạn là khuynh hướng văn nghệ xuất phát từ Âu châu vào thế kỷ 19, trái với cổ điển chủ nghĩa.”[39].

Từ lúc mộng “cần vương” bị thất bại, Phạm Thái tưởng rằng có thể tìm thấy niềm an ủi bên người tình trong mộng Trương Quỳnh Như. Nào ngờ cuộc tình bế tắc, người yêu phải chết bi thảm.

“Tất cả những chi tiết ấy làm cho thân thế chàng trai họ Phạm có cái duyên dáng của một nhân vật tiểu thuyết. Cuộc đời của Phạm thái có thể chỉ tóm tắt trong hai chữ thất bại: việc lớn thất bại đã đành mà việc tình duyên riêng tư cũng thất bại nốt.” Đó là ý kiến của nhiều nhà phê bình văn học. Nhưng cũng chính những trái ngang trắc trở đó mà Phạm Thái trở thành nhân vật của tiểu thuyết và mối tình cũng như thơ văn của hai người đậm đà tính lãng mạn. Điểm đặc biệt là thời gian Phạm Thái-Trương Quỳnh Như đã sống, đã yêu, đã viết cho tình yêu bất chấp những lề thói, khuôn thước của xã hội đó (1777-1813) nó có sự trùng hợp tình cờ với thời gian và vị trí của Chateaubriand[40] trong văn chương Pháp. Đó là vai trò nhà thơ mở đầu cho nền văn học lãng mạn ở Việt nam.

Tìm hiểu qua cuộc đời cũng như thi ca của họ, ta có cảm tưởng là những nhân vật trong tiểu thuyết của đầu thế kỷ 20, thời kỳ của Tuyết Hồng Lệ Sử, của Tố Tâm, Giọt Lệ Thu…khi phong trào văn chương lãng mạn bắt đầu tràn vào nước ta.

Trái lại những con người đó, mối tình đó và những tư tưởng yêu đương lãng mạn đó đã có mặt trên đất nước ta từ hơn trăm năm trước.

Phạm Thế Ngũ trong “Văn Học Giản Ước Tân Biên” cũng đã nhận xét: “Phạm Thái ở trong địa hạt hành động không làm nên trò trống gì, nhưng dưới con mắt của nhà văn học, hình ảnh của ông thật quyến rũ. Người trai thời loản ấy đã đeo gươm tráng sĩ, đã khóac áo thiền sư lại đóng vai tình lang nồng nhiệt để rồi đang tuổi thanh xuân kéo lê cuộc đời như một cùm xích. Con người ấy cũng đã hội hợp được tất cả những gì gọi là lãng mạn trong quan niệm của chúng ta ngày nay”[41]

Phạm Thái đã sống một khuôn mặt đa diện và đã yêu cuồng nhiệt say sưa. Trương Quỳnh Như cũng đã rất tự nhiên mạnh dạn trong tình yêu và cuộc sống. Tất cả tình cảm và ước vọng của họ gởi gắm lên trang thơ một cách trọn vẹn. Mối tình của họ là những đóa hoa nở sớm trước mùa của văn học. Nếu tình cảm và thơ văn của họ đã không được tiếp nối và phát triễn thành phong trào như vai trò của Chateaubriand ở Tây phương thì cũng là những chứng tích sống động và quý giá của thi ca lãng mạn trong thời kỳ văn học Việt Nam của thế kỷ 18 này.



Tịnh Ý
Huế, thượng tuần tháng tư 1973.

Tài liệu tham khảo:

Sách:

1.

Sở Cuồng Lê Dư: Phổ Chiêu Thiền Sư Thi văn Tập. Hànội, Nam ký thư quán, 1932.
2.

Hoàng Xuân: Chiêu Lỳ Phạm Thái Thi tập. Sài gòn, Anh Phương ,1959.
3.

Hoàng Xuân Hãn: La Sơn Phu Tử. Hà nội, Minh Tân, 1952.
4.

Đào Duy Anh: Hán Việt Từ Điển. Sàigòn, 1957.

5.. Dương Quảng Hàm: Việt Nam Văn Học Sử Yếu. Sàigòn, Bộ Giáo dục, 1968.

6. Phạm Thế Ngũ:Việt Nam Văn Học Sử giản ước tân biên. Sàigòn, Quốc học tt. 1969.

7. Lãng Nhân: Giai Thoại Làng Nho. Sàigòn, Nam Chi tùng thư, 1966.

8. Nguyễn Du: Truyện Thúy Kiều. Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính và chú giải. Sàigòn, Tân Việt, 1968.

9. Khái Hưng: Nửa Chừng Xuân. Sàigòn, Văn Nghệ, 1970.

10. Nhất Linh: Đoạn Tuyệt. Sàigòn, Đời Nay, 1972.

11. Lệ Hằng : Tóc mây. Sài gòn, Tổ hợp gió, 1972.



Tạp chí:

1. Nguyễn Văn Xung: Phạm Thái, một bộ diện đặc biệt trong văn học cuối Lê đầu Nguyễn. Tạp chí Văn, Sàigòn. tháng 12.1970.

2.Bùi Lương: Sơ Kính Tân Trang. Văn Hóa Nguyệt san bộ mới số 7,8,9,10 (tháng 12/1955 đến tháng 4 1956). Sàigòn, Bộ Giáo Dục xuất bản.

3. Trần Đức Rật: Phạm Thái và Sơ Kính Tân Trang. Văn Khoa, 1973.

4. Phạm Kiều Tùng: Những ý nghĩ về tình yêu. Sài gòn.Tạp chí Nghệ Thuật, số 17-18 tháng 11 vá 12.1966.

[1] Phạm Thế Ngũ.“Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên“.Sg, Quốc học Tùng Thư,1969.

[2] Sở Cuồng Lê Dư: „Phổ Chiêu Thiền Sư thi tập“.Hà Nội.Nam ký thư quán,1932

[3] Nguyễn Văn Xung; “ Phạm Thái, một bộ diện đặc biệt..“ Văn số 167. Saigòn.1970, trg.3

[4] Chưa tìm được tên thật .

[5] SKTT. c302-305

[6] SKTT c 354-361

[7] Sơ: cái lược; Kính: cái gương.

[8] SKTT c 59-62

[9]Xương góc tả và góc hữu phần trán là Nhật giác và Nguyệt giác, biểu hiện người thông minh, tài ba. LêDư.(sđd )

[10] Lê Dư (sđd): Phía trên sống mũi là Phúc Ấn đường. Chổ ấy nhọn và thấp là gặp không hay về đường chồng con.

[11] SKTT. 414-421

[12] Nguyễn Du: Truyện Thúy Kiều. Bùi Kỷ và Trần trọng Kim chú giải. Sàigòn, Tân Việt,1968.

[13] SKTT. 399-410.

[14] Núi Dục Thúy tức là núi Non Nước ở Ninh Bình. Vào đời Trần, Trương Hán Siêu có thơ đề khắc vào đá và gọi núi Dục Thúy.



[15] Cửa Thần Phù ở Thanh Hóa, sóng lớn rất nguy hiểm Ca dao có câu: Lênh đênh qua cửa Thần Phù

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

[16]Theo Lãng Nhân; Giai thoại Làng Nho, Nam Chi Tùng Thư 1966 thì Trần Danh Án đỗ Hoàng Giáp năm1787. khi tây Sơn ra bắc, ông theo lệnh vua Chiêu Thống sang cầu viện quân Thanh. Quân Tôn Sĩ Nghị thua, ông chạy theo vua Lê không kịp, bị bắt giam ở Thăng Long. Vua Quang Trung biết ông là người hiền, mời ra giúp nước. Ông khăng khăng từ chối.

[17] Theo Phạm Thế Ngũ, sđd, Lê Quýnh (1750-1805) năm 1789 phò tá vua Lê sang Tàu. Ở đó ông bị giam cầm suốt 13 năm. Năm 1804, nhà Thanh cho đem hài cốt vua Lê về nước, ông mới về.

[18] Hoàng Quang người Thừa Thiên, có tài văn chương. Nguyễn Huệ mời ông ra làm quan, nhưng ông nhất quyết từ chối.

[19], Hoàng Xuân Hãn: La Sơn Phu Tử , Hà Nội, Minh Tân, 1952. trg 136

[20] Hoàng Xuân Hãn.Sđd.

[21] Hoàng Xuân Hãn: S đd.

[22] Nguyễn Hữu Lượng.

[23] Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay.

[24] Phạm Thế Ngũ. Sđd.trg 248

[25] Theo Lê Dư, Sđd. thì Thụ bị đầu độc lúc Thái đã về quê. Theo Lãng Nhân, thì Thụ mất lúc Thái còn ở Lạng Sơn.



[26] Nguyễn Du. Truyện Thúy Kiều.

[27] Phạm Thế Ngũ. Sđd. Từ là thể thơ với những câu dài ngắn không đều nhau,có từ đời Đường. Từ có nhiều điệu khác nhau như Mộng Giang nam, Tây Giang nguyệt…trg.254.

[28] Cung Đằng: Đằng vương các.

[29] Xích thằng: sợi dây đỏ, chỉ sợi tơ hồng của ông Tơ, bà Nguyệt buộc đôi nam nữ nên duyên chồng vợ.

[30] SKTT. Bài „Triệu Linh“. Trg.

[31] Sở Cuồng Lê Dư. Sđd, trg 4 và Lãng Nhân: Giai thoại làng Nho, trg202.

[32] Phổ Chiêu TSTVT. Trg.4

[33] Nhất Linh: Đoạn Tuyệt. Sàigòn, Đời nay,1972, trg 30.

[34] Nhất Linh. Sđd, trg 31.

[35] Khái Hưng. Nửa Chừng Xuân. Sàigòn, Văn Nghệ, trg151.

[36] Phạm Kiều Tùng.“Vài ý nghĩ về Tình yêu“ Sàigòn. Tạp chí Nghệ thuật số 17(5.12.66) trg.6.

[37] Lệ Hằng: Tóc Mây. Sài gòn, Tổ hợp Gió,1972. trg.287.

[38] Thơ Hồ Dếnh : Ngập ngừng (trích lại từ Việt nam thi nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long.Sàgòn, Sống mới,1968.trg.590)

[39] Đào Duy Anh: Tự điển Hán Việt. Sàigòn, 1957.

[40] Chateäubriand:(1768-1848): Nhà văn Pháp, sau chuyến đi Mỹ trở về, mẹ và em chết, ông cảm xúc viết cuốn “ Le ge´nie du Christianisme“(1802). Tác phẩm này nằm trong số sách cấm của hội nhà thờ, nhưng nó lại được xem là thánh kinh của văn học lãng mạn và mở đầu cho văn học lãng mạn ở Âu châu vào đầu thế kỷ 19.

[41] Phạm Thế Ngũ: Sđd, trg 254.




1 Kommentar: