Freitag, 23. Dezember 2016

Gió lửa - Nam Giao


Lời ngỏ

Quốc gia nào cũng có Lịch Sử. Ghi lại biến cố, ngày tháng, là loại biên niên thuộc dòng chính sử. Chính sử chẳng phải lúc nào cũng được ghi nhận khách quan. Những biến cố thường được tô vẽ theo những quan điểm thế quyền đương đại một khi có lợi, và ngược lại, bị lờ đi một khi bất lợi.

Ngoài dòng chính sử, còn có phần lịch sử hình thành qua trí tưởng tượng, óc phán đoán, và cao hơn là sự cảm nhận từ quá khứ những vấn đề của con người và xã hội hiện vẫn tồn tại. Ở đây, biến cố lịch sử trở thành đối tượng đem soi dưới lăng kính chủ quan, nhào nặn lại để rồi, qua ngòi bút người viết, thành tiểu thuyết dã sử. Hiểu như vậy, không ai phủ nhận được phần trách nhiệm của những tiểu thuyết dã sử. Soi rọi vào những vấn đề nhân quần xã hội và thân phận con người trong quá khứ là một cách đi tìm sự sống tàng ẩn trong lịch sử. Lịch sử đó là lịch sử sống. Nó tạo được khả năng nhìn vào tương lai dưới một góc độ nào đó. Chỉ kể ra những biến động và sự cố, loại chính sử biên niên đơn thuần ghi lại lịch sử chết. Nó thường bịt ít nhất là một trong hai con mắt ta lại. Thậm chí, như Tocqueville có nói, nó là một phòng triển lãm tranh phần lớn sao chép vì rất hiếm tranh nguyên bản.


Trong Gió Lửa, không gian là nước Việt Nam, thời điểm là buổi Trịnh tàn-Lê mạt vào cuối thế kỷ 18. Mọi nhân vật, kể cả những nhân vật mang tên có thật trong chính sử, vẫn là những nhân vật hoàn toàn tiểu thuyết. Tiểu thuyết là cách tác giả đối thoại với lịch sử.

Tất nhiên đối thoại đó chỉ một chiều và chủ quan. Thậm chí tác giả không câu nệ bất cứ điều gì, kể cả đôi khi cưỡng bức lịch sử để thai nghén ra tiểu thuyết. Liên tưởng đến một không gian khác, một thời điểm khác, hoặc những nhân vật có thật trong thời đại này hay thời đại kia, là thẩm quyền của độc giả.

Ðọc tiểu thuyết, trước tiên là để mua vui. Sau, dẫu chỉ đôi khi,tiểu thuyết dã sử lại tạo dịp đào sâu một số suy tư về quá khứ, hoặc đã tiềm ẩn, hoặc đang xung động. Những trang sử Việt Nam trên dưới năm trăm năm qua phơi trải chiều dài một cuộc nội chiến vẫn ám ảnh đâu đó như một thứ ác nghiệp đang còn rình rập ẩn náu chỉ đợi cơ hội là lại làm cho lệ rơi máu đổ. Tại sao ? Dĩ nhiên, yếu tố tình cờ có, yếu tố khách quan có. Nhưng lịch sử vẫn là, nói cho cùng, sản phẩm của những con người suy tư và hành động trong một mẫu hình văn hoá nhất định. Vậy thì yếu tố nào trong mẫu hình kia là nguồn căn của những cuộc nội chiến mà ta là nạn nhân của chính ta ? Năïn đất sét làm tượng Thành Hoàng, phải chăng chúng ta đã quì lậy thì thụp đến độ mê mụ để trở thành nạn nhân của những quyền lực do chính chúng ta cùng dựng lên, một khi, theo qui luật tồn tại, những quyền lực đó xung đột với nhau ? Tránh cho cảnh lệ lại rơi máu lại đổ, không thể không đặt cả cái mẫu hình văn hoá đó lên bàn giải phẫu để suy ngẫm, hội chẩn và rồi cắt bỏ những phần nhiễm độc trong tâm thức. Chỉ có như vậy, tương lai mới phần nào rõ nét ngõ hầu hiện tại cưu mang được hy vọng để tiếp tục sống còn.

Về phần những vấn đề đặt ra để suy ngẫm, tác giả xin hoàn toàn trách nhiệm, và hy vọng độc giả ở mọi nơi có sự đồng cảm.

Tác giả: Nam Giao

Iles de la Madeleine 17-7-1997
Québec 21-10-1998


Vài nét chính sử

Lửa Ðàng Ngoài

Năm Quí Sửu (1673), Trịnh-Nguyễn chấm dứt chiến tranh, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt đất nước. Từ sông Gianh ra Bắc, gọi là Ðàng Ngoài, do vua Lê chúa Trịnh nắm quyền. Từ sông Gianh vào Nam, gọi là Ðàng Trong, do chúa Nguyễn cai quản.

Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh lên ngôi chúa thay Trịnh Giang. Loạn lạc khắp nơi : Lê Duy Mật lấy nghĩa phù Lê, thất bại, chạy về Thanh Hóa (1738). Năm Nhâm Tuất (1742), Nguyễn Hữu Cầu khởi binh đóng Ðồ Sơn, chiếm Kinh Bắc. Năm 1747, Cầu đánh Sơn Nam, bất ngờ tập kích Thăng Long, rồi rút về Sơn Nam, phối hợp với Hoàng Công Chất ở Thái Bình. Nguyễn Hữu Cầu bị bắt (1751) và bị chém sau mười năm khởi nghĩa, lôi kéo được hàng vạn dân nghèo.

Năm 1767, Doanh mất, con là Trịnh Sâm lên thay, dân Kinh Bắc nổi dậy. Lê Duy Mật đánh bại tướng Trịnh ở Nghệ Tĩnh. Hoàng Công Chất chết già (1769), nghĩa quân sau đó bị tan rã. Năm sau, Trịnh Sâm tiêu diệt phong trào phục Lê của Lê Duy Mật đã tồn tại được ba mươi hai năm. Năm 1771, Sâm giết thái tử Lê Duy Vĩ, ép vua Lê hiển Tông lập Lê duy Cẩn lên ngôi Ðông cung.

Năm 1773, Nguyễn Nhạc ở Tây Sơn chiếm Qui Nhơn. Trịnh Sâm cấm đạo Thiên chúa ở Ðàng Ngoài. Tháng chạp năm 1774, Sâm chiếm thành Phú Xuân. Năm 1777, hạn hán ở Ðàng Ngoài, đói liền mấy năm ở Nghệ An.
Tháng chín năm Canh Tý (1780), sủng phi Ðặng Thị Huệ cùng Hoàng Tế Lý mưu giành ngôi Chúa cho con thứ là Trịnh Cán. Con trưởng của Tĩnh đô vương Trịnh Sâm là Tông, cùng Ðàm Xuân Thụ, Nguyễn Khản, Nguyễn Khắc Tuân định việc khởi binh. Việc vỡ lở, Sâm bắt giam Tông và Khản, kết tội tử hình bọn dư đảng. Hai năm sau, Sâm mất.Trịnh Cán lên ngôi chúa. Cán lúc ấy mới sáu tuổi, Hoàng Tế Lý và Ðặng Thị Huệ nắm giữ công việc triều chính.

Tháng mười năm Nhâm Dần (1782), kiêu binh nổi loạn, phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên. Nguyễn Khản và Dương Khuông phụ chính. Tháng giêng năm Giáp Thìn (1784), kiêu binh làm náo loạn kinh đô Thăng Long, đốt dinh Nguyễn Khản và Dương Khuông, giết Chiêm Võ hầu, cướp bóc nhà cửa đám quan lại và công hầu.
 
Gió Ðàng Trong

Năm Bính Ngọ (1306), Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, vua Chiêm Thành. Năm sau, Mân dâng hai châu Ô, Rí dẫn cưới. Tháng năm, Mân chết. Tháng mười, Trần Khắc Chung cướp Huyền Chân mang về Bắc hà. Chiêm Thành đòi Ô Rí, nay đổi tên là hai châu Thuận, Hóa nhưng không được, mang quân đánh châu Hóa (1353). Ðến năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm thắng, vào đến Thăng Long rồi lại rút ra giữ Thanh-Nghệ. Tháng năm năm Canh Thân (1380), Hồ Quí Ly đánh lùi được Chế Bồng Nga. Chiến tranh Chiêm Việt kéo dài cho đến đời chúa Nguyễn. Nguyễn Hoàng lấy Phú Yên năm 1622, chấm dứt trên thực tế vương quốc Chiêm Thành.

Ở Ðàng Trong, chúa Nguyễn lấn đánh Chân Lạp sau cuộc nội chiến với Ðàng Ngoài. Năm Ất Dậu (1705), Chúa Nguyễn chiếm Phiên trấn. Năm Mậu Tý, Chúa Nguyễn liên minh với Mạc

Cửu là người Minh Hương, phong làm Thống binh trấn Hà Tiên. Năm Tân Hợi (1731), quân Nguyễn chiếm Gia Ðịnh và lập Vĩnh trấn. Võ vương lên ngôi chúa (1738), bắt đầu đổi phong tục và bắt dân trang phục theo kiểu Trung Quốc. Võ vương mất, quyền thần Trương Phúc Loan phế Phúc Thuần, lập Phúc Dương còn nhỏ lên thay năm 1771.

Nguyễn Nhạc cùng hai em là Huệ và Lữ dấy quân ở Tây Sơn, chiếm Qui Nhơn (1773) rồi đánh vào Nam-Ngãi. Nhân dịp, Trịnh Sâm và Hoàng ngũ Phúc tiến chiếm Phú Xuân (1774), rồi xuống Quảng Nam. Tây Sơn hòa với Trịnh, đánh lấy Phú Yên. Chúa Nguyễn chạy vào Gia Ðịnh. Nguyễn Lữ (1776) mang thủy quân đánh Gia Ðịnh, chiếm Sài Gòn và ba trấn lân cận, rồi lại về Qui Nhơn. Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, đặt niên hiệu là Thái Ðức.

Năm 1777, Huệ lại đem quân đánh Gia Ðịnh, bắt giết cả Phúc Dương và Phúc Thuần rồi về Qui Nhơn. Quân Nguyễn, tôn Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi chúa, chiếm lại Sài Gòn. Năm 1778, Nhạc xưng đế, phong Lữ làm Tiết Chế và Huệ là Long Nhượng tướng quân. Ánh đánh chiếm lại Bình Thuận. Năm Nhâm Dần (1782), Nhạc và Huệ mang quân đánh Gia Ðịnh, Ánh phải chạy ra đảo Phú Quốc. Nghe tin Hộ giá Phạm Ngạn tử trận, Nhạc trả thù, giết rất nhiều thương nhân Hoa kiều. Nhạc và Huệ về Qui Nhơn, Ánh lại chiếm Gia Ðịnh ba tháng sau. Năm sau (1783), Huệ và Lữ phản công, Ánh đại bại chạy sang Xiêm, giao con cả là Cảnh mới năm tuổi cho Bá đa Lộc, là giám mục đạo Gia-Tô, mang làm con tin đi Pháp để cầu viện. Năm Giáp Thìn (1784), ba vạn quân Xiêm kéo sang. Huệ mang quân ra đánh tan, rồi để Ðặng văn Chấn ở lại giữ Gia Ðịnh.
 
Tháng năm, năm Bính Ngọ (1786), Huệ cùng Lữ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ văn Nhậm tiến chiếm Phú Xuân. Cuối tháng sáu, Tây Sơn tiến ra Ðàng Ngoài dưới lá cờ « Phù Lê-diệt Trịnh » đánh tan quân Trịnh, vào Thăng Long. Tháng bảy, Huệ lấy công chúa Ngọc Hân. Lê Hiển Tông mất, cháu là Duy Kỳ lên ngôi, sau lấy hiệu là Lê Chiêu Thống. Tháng tám, Nhạc ra Bắc, cùng Huệ rút quân về nhưng bỏ lại Nguyễn Hữu Chỉnh không cho theo. Chỉnh phải chạy trốn về Nghệ An.

Nội bộ Tây Sơn bất hòa, dẫn đến xung đột. Tháng chín, Trịnh Bồng về lại Thăng Long nhận ngôi chúa, được hai tướng Hoàng Phùng Cơ và Ðinh Tích Nhưỡng ủng hộ. Nguyễn Hữu Chỉnh dấy quân phù Lê, kéo ra Thăng Long đuổi Bồng, được phong làm Bằng Quốc công, thâu tóm lại quyền bính vào đầu năm Ðinh Mùi ( 1787). Xung đột Tây Sơn kéo đến tháng hai thì chấm dứt, lấy Bản Tân làm mốc, trở ra Bắc thuộc Huệ được phong là Bắc bình Vương, về Nam thuộc Nhạc. Nhạc cắt Gia Ðịnh cho Lữ, phong làm Ðông định Vương, còn tự mình xưng là Trung Ương Hoàng Ðế đóng tại Qui Nhơn. Ánh lại mang quân đánh Gia Ðịnh. Nguyễn Lữ về Qui Nhơn tháng sáu âm lịch (1787), ốm rồi chết, để Phạm Văn Tham trấn giữ.

Tháng mười một âm lịch, Bá đa Lộc thay mặt Nguyễn Ánh ký Ðiều Ước Liên Minh Versailles. Khoảng thời gian đó, Huệ sai Vũ văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, bắt và giết. Tháng bốn năm sau (1788), Ngô Văn Sở báo Huệ là Nhậm lạm quyền và có ý phản, Huệ ra Bắc giết Nhậm. Tháng bảy, Lê Chiêu Thống cho người sang cầu cứu nhà Thanh. Tháng mười, trên hai mươi vạn quân Thanh ồ ạt vào biên giới. Ngô Văn Sở theo lời Ngô Thì Nhậm kéo quân lui về núi Tam Ðiệp. Ngày 17-12-1788, quân Thanh dưới quyền Tôn sĩ Nghị vào chiếm Thăng Long.

Năm ngày sau, Huệ làm lễ tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng Ðế lấy hiệu là Quang Trung rồi xuất quân. Ngày 26-12, Huệ đến Nghệ An rồi ngày 15 -1-1789, tức là ngày hai mươi tháng chạp năm Mậu Thân, Huệ đến Tam Ðiệp. Hạ lệnh ăn tết trước, và hẹn ngày mồng bảy Tết sẽ vào đến Thăng Long, Huệ chia quân làm năm đạo tiến ra Bắc. Ngày mồng ba tháng giêng, đồn Hạ Hồi vỡ. Ngày mồng năm, đồn Ngọc Hồi bị đánh tan. Ngày mồng bảy, Quang Trung vào Thăng Long, yết bảng an dân và cho quân Thanh ra hàng.
Tháng năm năm Kỷ Dậu, Quang Trung ra chiếu khuyến nông và lập học. Tháng tám, khoa thi hương dùng chữ Nôm đầu tiên, có Nguyễn Thiếp làm đề điệu, được mở ở Nghệ An. Năm Tân Hợi (1791), tiền « Quang Trung thông bảùo » được ban hành, và Viện Sùng Chính được thành lập, phụ trách giáo dục và phiên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm. Năm 1792, viện đã dịch được bộ Tiểu Học và Tứ Thư, do Nguyễn Thiếp trách nhiệm. Tháng sáu, Nguyễn Ánh mang thủy quân vào đốt phá Thị Nại thuộc Qui Nhơn. Quang Trung gửi hịch kêu gọi quân dân chuẩn bị tấn công Ánh ở Gia Ðịnh nhưng ngày 29 tháng bảy năm Nhâm Tí, Quang Trung băng hà, con là Quang Toản mới mười tuổi lên kế vị, lấy hiệu là Cảnh Thịnh.

Sau đó, thái sư Bùi Ðắc Tuyên chuyên quyền. Nhạc mất (1793), Tuyên sát nhập đất Nam-Ngãi, nội bộ Tây Sơn lủng củng. Ánh xây thành Diên Khánh, quấy phá Bình Thuận. Cuối năm 1794, Ðại tướng Trần Quang Diệu vây Diên Khánh. Tháng năm âm lịch Ất Mão (1795), Tư khấu Vũ Văn Dũng bắt giết Bùi Ðắc Tuyên. Diệu bỏ Diên Khánh, về Phú Xuân, dẫn quân đánh Dũng, may có Phan Huy Ích giảng hòa.

Ngày tàn của triều đại Tây Sơn bắt đầu. Bảo là con Nhạc chiếm Qui Nhơn và định hàng Nguyễn Ánh, nhưng Quang Toản biết, vây thành và giết vào cuối năm 1798. Ánh đánh Qui Nhơn, cuối cùng chiếm được. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng phản công, giữ cửa biển Thị Nại, vây Qui Nhơn liền một năm. Bất ngờ, tháng ba năm Tân Dậu (1801), quân Ánh chiếm Quảng Nam. Ngày ba tháng năm, thành Phú Xuân bị hạ, Quang Toản rút quân ra Bắc. Tháng mười một, Toản và em là Quang Thùy mang ba vạn quân tiếp ứng cho Dũng, Diệu và vợ là Bùi thị Xuân tiến đánh lũy Trấn Ninh ( Hà Trung). Ðó là trận đánh lớn cuối cùng của quân đội Tây Sơn.

Tháng năm năm Nhâm Tuất (1802), Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long. Tháng tám, quân Nguyễn hạ thành Thăng Long, Quang Toản chạy lên Kinh Bắc thì bị bắt. Tháng mười một, Ánh xử tội Vua tướng Tây Sơn. Về phần Ngô thì Nhậm, Nhậm bị đánh ở Văn Miếu đến chết vào tháng hai năm Quí Hợi (1803).

Chương 1
Tiếng đá

Gió hầm hập từ phía Tây thổi về Nghệ An. Gió lùa cơn nóng đến độ chó ngậm hơi không sủa, trâu bò uể oải nằm dài, rớt dãi chẩy trắng mép, lim dim tựa như vừa no đầy sau cơn xác thịt. Ðợi đến nửa đêm, gió mới hà được một chút hơi lạnh của núi trong tiếng xào xạc từ rừng lá rạc vây bủa trại Bùi Phong.

Căn nhà ba trái nằm yên ả dưới rặng chèm. Tiếng võng thỉnh thoảng kẽo kẹt nhịp cho tiếng quạt phành phạch phẩy gió. Không biết loài chim gì bay ngang, quàng quạc kêu làm vỡ bấy cái êm đềm một đêm nồm ngột ngạt. Lửa đóm lóe lên trong nhà, hắt qua khe liếp những vệt sáng đỏ đục. Tiếng rít thuốc lào sằng sặc, rồi tiếng người sột soạt ra mở then cửa. Nguyễn Thiếp ra đứng, ngửa mặt nhìn trời. Ánh trăng chếch tỏa xuống mầu xanh huyển hoặc trên những lùm cây chập chờn nhẩy múa.

Trước khi gia đình họ Nguyễn ở Nguyệt Ao lên lập trại cuối năm ngoái, khoảng đất bằng phẳng rộng độ hai mẫu ta đất này chỉ toàn là rạc, lá nhọn, sắc, tua tủa chĩa ra như lông nhím. Cũng bởi vì Thiếp nổi tiếng là người sành thuật phong thủy nên tiếng đồn đãi rằng chỏm Bùi Phong ở phía đông ngọn Lạp Ðính trong rặng Thiên Nhận là nơi có mạch rồng, ai để mả ở đó thì đời sau sẽ hạnh phát đế vương. Thế là nghe đâu có vài kẻ cùng một lúc lên quan kiện, ai cũng đưa từ chứng rằng đó là đất của tổ tiên mình. Nhưng chuyện kiện cáo không đến nỗi nhì nhằng. Ở vào những năm cuối cùng đời chúa Trịnh Doanh, ai cũng biết là từ chứng có thể mua bằng tiền, giá thường chỉ bằng giá một đôi gà. Vả lại, miệt Hải Dương có giặc Nguyễn Hữu Cầu, và ngay tại hai trấn Thanh-Nghệ này, Nguyễn Diên mời được Hoàng tôn Lê duy Mật kéo cờ tôn phù vua Lê dấy binh chống chúa Trịnh. Nổi loạn chiếm Ðồ Sơn năm 1742, Cầu thường lấy của nhà giầu ra phân phát cho người nghèo, chống với chúa Trịnh được gần mười năm. Mật là tôn thất nhà Lê, nổi loạn đánh Trịnh Doanh ở Thăng Long, thất bại phải chạy ra Thanh Hóa năm 1738. Trong cảnh loạn lạc, quan huyện La Sơn tìm cách khu sử cho thật gọn. Coi chỏm Bùi Phong là công thổ, quan để cho người đồng liêu họ Nguyễn vừa mới nhậm chức huấn đạo ở Anh Ðô mua lại.

Thuở Hiến sát sứ Nguyễn Hành thụ bệnh qua đời ở Thái Nguyên cách đây mười lăm năm, nỗi đau xót người chú đã nuôi mình ăn học khiến Thiếp mắc chứng cuồng dĩ . Nhẩy xuống ruộng bùn huyện Kim Hoa nằm mê man ba ngày, Thiếp may được người xã Do Nhân mang về nuôi cả tháng, sau mới tìm đường về nhà. Ba ngày trước, tức là đúng vào ngày mùng tám tuần trăng thứ sáu, Thiếp lại lên cơn động kinh. Ðang phạt cỏ tranh bới đất trồng thêm chục gốc chè, Thiếp bỗng ngã vật ra, chân tay co quắp, miệng méo xệch, người giật lên như đỉa phải vôi. Thiếp muốn kêu nhưng cổ tắc lại, nước dãi đặc sệt phòi ra từng vũng sùi bọt trắng. Thiếp ngửng mặt nhìn lên trời: mây đùn lên, bay vùn vụt, bỗng nhiên đổi mầu thành mây bẩy sắc, ráng tía ngày càng chói lọi đến lóa mắt. Trên cao, vô số khuôn mặt từ phương Nam bay lại, sà xuống, mặt người có, mặt ma mặt quỉ có, mặt Thánh mặt Phật cũng có, lúc thì nhe nanh nhe vuốt như chực cắn xé, lúc lại bi thương đại lượng nhỏ nước mắt từ bi.

Ðột nhiên, một vùng đất nổi lên cao, chung quanh là rừng núi, một đàn voi xông ra, dẫn đầu là một con voi trắng đầu như đầu rồng. Mấy chục con voi lồng lên trong cát bụi mịt mù rượt đuổi một đàn ngựa, con chạy về phương Nam, con dạt về phương Bắc. Tiếng cồng nổi lên nghe đinh tai nhức óc, lẫn vào đó là tiếng tù và, tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng kim khí chát chúa choạng vào nhau, rồi tiếng rên la, tiếng van vỉ, tiếng kêu khóc, tiếng chửi rủa. Thiếp cố xoay người về phía trái, tì tay vào một mô cỏ vừa cào. Mặt trời rát bỏng xối xuống từng chậu lửa sánh sệt, làm cho đống cỏ tranh mới cắt cháy bùng lên. Cháy ! cháy ! cháy rừng ! Thiếp hả miệng hớp lấy chút không khí mỗi lúc một ngột ngạt, cố đến độ cổ họng bung ra thành tiếng « chạy ! chạy đi ! » , rồi lịm dần trong lớp sóng lửa vỗ sôi lên giữa một cái vạc dầu đang từ từ nhận chìm cả nhân loại.

Khi Thiếp mở mắt ra, trời đã tối mịt. Ánh đèn dầu hắt bóng Ðặng-thị lên vách mới trát còn ngan ngát mùi đất ẩm. Thiếp thều thào gọi vợ. Ðặng thị cúi xuống xốc cho Thiếp ngồi lên, giọng nửa mừng nửa tủi :

- Mấy năm nay tưởng yên rồi, nay đột nhiên thầy nó lại ngã bệnh .

Thiếp gượng cười.

- Thầy nói, thầy kêu, rồi lại khóc nữa.

- Nói gì ?

- Thầy bảo bây giờ là thời mạt pháp !

- Còn kêu gì ?

Ðặng-thị im lặng một chặp, ngập ngừng :

- Thầy kêu nhiều lắm, khó nhớ hết được. Có lúc thầy vừa khóc vừa bảo đến thánh thần cũng hư huống chi là người...

- Thế kêu với ai ?

Ðặng-thị lắc đầu, kéo tấm chăn đơn đắp cho Thiếp, nhỏ nhẹ :

- Tôi không biết ! Thầy nó uống cho tôi bát thuốc này đã. Uống cho hạ cơn xuống đêm nay.

Thiếp từ tốn nâng bát thuốc do một người bạn nổi tiếng danh y bốc cho. Từng ngụm thuốc đắng chát trôi qua như đốt cổ họng, song vào đến bụng thì lại thành mát rượi. Thiếp đặt bát thuốc lên cái ghế đẩu kê cạnh giường, nhớ lại ngày nào họ Lê bắt mạch cho mình trên chùa Hương Tích, nửa đùa nửa thật cười bảo «...chẳng biết Cuồng ẩn đó hay Lãn ông này sẽ tạo nghiệp để phải giây vào đám bụi bậm dưới kia ». Thiếp với tay lấy bình nước chè, nhưng mất thăng bằng, ngã chúi xuống chân giường, miệng thở hổn hển. Bóng đèn hắt bóng Ðặng-thị lên vách, hấp tấp đang xốc Thiếp lên. Lúc sau, bấc đèn vặn nhỏ lại khiến cái bóng khổng lồ ngả dài ra rồi biến mất.

Từ hôm Thiếp lên cơn động kinh, cứ chập choạng tối là Ðặng-thị bắt cả ba đứa con đi ngủ sớm. Hai đứa lớn biết nghe, nhưng Thúc Khải mới chập chững biết đi lâu lâu lại khóc đêm đòi mẹ. Bấy giờ đã canh hai, trăng lưỡi liềm đang ngả về phía tây rặng Thiên Nhận. Trại Bùi Phong mơ hồ lẫn vào giấc ngủ chập chờn trong đêm mùa hạ. Tiếng ếch nhái ven con suối cạnh nhà oang oác, phụ họa vào những âm thanh rỉ rả của đủ loại côn trùng than van cơn nóng bức hừng hực chưng bằng lửa địa ngục. Ðặng-thị thỉnh thoảng lại phe phẩy quạt cho Thúc Khải. Giường bên kia, tiếng trẻ ú ớ nói mê. Bước vào nhà, Thiếp đặt mình xuống giường nằm im ngắm ánh trăng qua khe liếp, mông lung nghĩ ngợi.

Ðột nhiên con Vện buộc ở gốc cây đầu nhà tru lên sủa oăng oẳng. Tiếng chân người chạy như ma đuổi mỗi lúc một gần. Khi Ðặng-thị vừa khêu đèn lên thì tiếng gõ cửa đã dồn dập đánh thức cơn ngái ngủ đang chờ ập đến. Cửa vừa mở, tiếng nức nở vang lên :

- Nguyễn công, xin người ...

Ðặng-thị cúi vội xuống xốc nách người con gái đang quì, thảng thốt hỏi. Dưới ánh đèn, mặt người con gái nhợt nhạt, mái tóc dài màu đen huyền xổ tung ra trên hai vai bung toạc những vết rách như dao cứa. Khắp mảng áo trái, máu bầm hoen ố những đường kim tuyến thêu dọc trên những chiếc áo chẽn của phụ nữ miền núi. Người con gái hai tay run rẩy đưa cho Thiếp một quyển sách gáy da, rồi nhũn người khuỵu xuống, hai mắt nhắm nghiền lại. Ðặng-thị vừa lay vừa gọi, nhưng vô ích.

Người con gái đó tên là Hà Khinh Vân, nhưng mọi người trên bản Mê Thượng đều gọi nàng là nàng Mây. Mây là con gái đầu lòng của Hà công, người trưởng tộc họ Hà đã đến sinh cơ lập nghiệp cách đây hơn hai trăm năm trên rặng Giăng Màn. Rặng này cũng có tên là Khai Trướng, chạy theo hướng Bắc-Nam, nằm về phía Tây rặng Thiên Nhận, chia ranh giới giữa châu Hoan và vương quốc Ai Lao. Hà tộc đông nhất bản, có lẽ là họ đầu đi khai phá Giăng Màn, và đã suốt tám đời làm Chao cai quản bản. Trong gần ba trăm nóc gia, với số trên dưới năm trăm tráng đinh, ngoài họ Hà còn thấy họ Ðinh, họ Lê, họ Nguyễn. Chính vợ Hà công là người họ Nguyễn, mới di cư đến Mê Thượng khoảng hai mươi năm nay. Nghe đâu có dính dáng họ hàng gì với Nguyễn Hữu Cầu đã dấy quân làm loạn, gia đình Nguyễn-thị phải bỏ miệt Ðồ Sơn chạy vào Nghệ An để tránh tróc nã.

Tộc trưởng họ Hà không nhất thiết là dòng con trưởng mà phải là một người có công đầu. Ðể định công, cứ năm năm, họ Hà họp Tộc hội đông đủ mọi chi mọi ngành. Hạch thí gồm hai phần, thi võ và thi văn. Phần thi văn lại trọng về mặt binh thư, và đôi khi có hỏi cả thuật Pháp trị theo sách của Thương Ưởng và Hàn Phi. Không phải kỳ tộc hội nào cũng có người qua được hai phần hạch thí, cho nên đôi khi phải chờ đến mươi mười lăm năm mới được một người. Người này, được gọi là Tộc thứ, làm phụ tá cho Tộc trưởng cho đến kỳ hạch thí sau. Nếu có thêm được người trúng hạch thì Tộc trưởng xuống nhường cho Tộc thứ lên thay mình, còn người mới trúng hạch sẽ được đề làm Tộc thứ.

Trường hợp Hà công, húy là Trường , lên làm Tộc trưởng là một sự kiện khá hãn hữu. Vào tiết lập đông năm Giáp Tý đời Cảnh Hưng thứ ba, bản Mê Thượng bị một con cọp cái khôn đến hóa tinh khuấy phá dữ dội. Nó đến rình vồ người làm mương làm rẫy, và có lần xông hẳn vào bản vật chết một con trâu rồi tha đi. Trai bản sợ, đi đâu phải đi thành toán năm ba người mà vẫn bị nó tấn công, có kẻ thương tích, có kẻ tử vong. Sau một năm nào là đặt bẫy, nào là đánh thuốc, nào là rình bắn tên có tẩm nọc độc, con cọp vẫn vô sự, lại trở nên ranh mãnh và táo tợn đến độ vào tận ven bản rình mò giữa ban ngày ban mặt. Người ở bản chịu thua, đành lập một cái miếu thờ thần Bạch Hổ, rồi cứ mỗi tháng đến nộp một con lợn nái.

Hà công năm ấy mới hai mươi hai tuổi, tính tình xưa nay vốn lầm lì, đọât nhiên hỏi « thần Bạch Hổ là hổ đực hay hổ cái ? ». Không ai trả lời, Hà công liền vác một túi tên, một cây cung dài hai thước, một thanh mã tấu và hai cuộn dây chão to bằng ba đầu ngón chân cái, lẳng lặng đi theo đám người khiêng lợn đến miếu thờ. Khi ai nấy đã ra về, Hà tự buộc mình vào cái chạc ba khá cao trên một cây cổ thụ mọc ngay cạnh miếu, làm một cái đầu thòng lọng to bằng cái nia, rồi cột vào gốc cây. Xong đâu đấy, Hà trèo lên cây, dở cơm nắm ra ăn, bình tĩnh như chẳng có gì. Hà chờ một đêm, sáng hôm sau con cọp đến lấy mồi như lệ thường, không có vẻ nghi ngại, cũng chẳng buồn gầm gừ khi nghe tiếng con lợn tế thần rú lên những tiếng eng éc não nùng vô vọng.

Ðợi đến lúc cọp vục đầu vào cổ con lợn đã bị xé tanh banh, Hà nấp trên cây ném sợi thòng lọng vào đầu con cọp. Ngạc nhiên, con cọp nhẩy lồng lên gầm. Nút thòng lọng thắt lại khiến cọp nghẹt thở. Nó khôn ngoan nằm phục xuống, mắt lừ lừ, tai nghe ngóng, mũi khụt khịt tìm hơi kẻ thù. Hà dương cung bắn sáu phát tên, phát nào cũng trúng nhưng không vào chỗ nhược. Con cọp lại gầm lên, lết nhanh vào bụi cây, quay cổ lại cắn sợi dây chão.

Hà lắp thêm tên, đợi cách bắn ngay vào chỗ giữa hai mắt cọp rồi bình tĩnh chờ. Nhưng đến quá một khắc vẫn không thấy động tĩnh gì, Hà nới dây, tụt xuống chạc cây dưới thì con cọp bỗng đâu nhẩy ào vào, làm Hà tối tăm mặt mũi rơi xuống đất. Con cọp không buông tha xông lại lấy chân tát Hà. Hà chĩa mũi mã tấu lùi ra sau. Con cọp nhẩy qua bên trái, rồi nhẩy qua bên phải, tránh lưỡi mã tấu. Vờn nhau đến lần thứ tư, bất chợt con cọp nhẩy thẳng vào Hà. Mũi mã tấu đâm xốc lên, nhưng con cọp vẫn còn sức đạp Hà ngã xuống, mồm há ra ngoạm vào chân trái Hà. Hà rút dao găm, tay phải kẹp đầu cọp, tay trái kéo một nhát vào cổ. Con cọp nhất định không chịu nhả mồi. Hà lại kéo ngược lại một nhát dao, rồi đau quá, ngất đi.
Khi tỉnh dậy thì trời đã xẩm tối, Hà cố đẩy đầu con cọp ra, nhưng không còn đủ sức. Hà định gọi, nhưng biết không có ai nghe được, lại thôi. Cơn khát làm rát cả cổ, nhưng ống nước mang theo văng đâu mất. Ống chân trái nát nhè trong mồm cọp làm Hà đau đến độ răng đánh vào nhau nghe lách cách như đánh mõ bản. Mờ sáng hôm sau, Hà lấy dao cắt rơi đầu con cọp, vộc miệng vào uống máu cho đỡ khát. Uống xong, Hà nôn thốc nôn tháo rồi lại ngất đi. Trưa ngày hôm đó, Hà tỉnh dậy, thấy ruồi nhặng đã bu đầy vào chỗ chân trái Hà còn dính trong mồm con cọp. Hà thét lên : « Trời ơi! trời có mắt không? » rồi lại mê đi một lần nữa.

Hà nhìn thấy mình bay bổng về phương Ðông, đậu trên đỉnh Thiên Nhận, chung quanh chập chùng những chỏm núi tròn mầu hồng tía nổi bật giữa cái nền xanh ngắt của giãy Giăng Màn. Hà rút ống đinh-bia, loại sáo ngang của người Thái trắng, kề môi thổi lên một khúc, rồi ồ ồ cất tiếng hát :

Trăm thứ hoa không bằng hoa con gái

Trăm thứ trái không bằng trái bông com

Trăm thứ hương không bằng hương con mái

Lúc ấy, Nguyễn-thị tay dâng lên Hà chiếc cần uống rượu, mắt nhìn vào mắt Hà, bảo: «...hoa đây, hương đây ».

Hà uống, thấy cổ mát lịm, từ từ mở mắt ra. Chung quanh Hà lố nhố những người. Ông lang mừng rỡ kêu: « Tỉnh rồi! phúc thật lớn ! ». Hà nhớ lại, hỏi cái chân trái mình nay ra sao. Ông lang lắc đầu. Hà đòi ăn một nồi cơm, và xin một vò rượu. Uống sạch vò rượu, Hà hỏi tìm thanh mã tấu của mình. Hà bật cười khành khạch, châm điếu rít thuốc, rồi thình lình xoay người hét lên một tiếng chặt vào khoảng thịt nhầy nhụa trên chân trái. Hà lại ngất đi một lần nữa. Ba hôm sau, Hà mời Nguyễn-thị rồi kể lại giấc mơ của mình. Nguyễn- thị không nói « ...hoa đây, hương đây » nhưng bảo « ...xin cứ cho người đến hỏi ». Cuối năm đó, họ thành thân. Chú rể chống nạng và đã trở thành tộc trưởng họ Hà cách đấy đúng hai tháng.

Ðặng-thị đánh thức Thiếp vào lúc nắng đã chớm vàng rừng cây trên núi Lạp Ðính. Mây vẫn còn thiêm thiếp ngủ, tóc xòa những sợi tơ huyền óng ả chảy xuôi xuống triền thân mỏng mảnh uốn lượn những thác ghềnh mới được thiên nhiên mô phỏng. Thiếp lẳng lặïng đổ nước vào bình trà Lạc Thủy, rồi gắp những mảnh than hồng chèn quanh bình nước sôi bằng đồng mun do chính Hà công mang tặng ba năm về trước. Khi ấy, Hà và Nguyễn-thị ghé về làng Nguyệt Ao, nằng nặc đòi gặp. Quà ra mắt là ba sấp vải, ba sâu tiền, mười cân trà và chiếc bình đồng mun. Thiếp hỏi :

- Tôi làm được gì mà Hà công lại đãi thế này ?

Hà công khẩn khoản :

- Tôi đến đây xin tiên sinh dạy cho một câu mà thôi. Ngài dạy thế nào tùy ngài. Tôi học được gì, cũng tùy tôi. Còn dăm ba món quà này chỉ là ngoại vật, đáng gì mà ngài phải quan tâm.

Ngừng một lúc, Hà công tiếp :

- Thời buổi loạn lạc này, vua không ra vua, tôi chẳng ra tôi, thánh nhân phải sinh ra để cứu đời, nhưng
sinh ở đâu ?

Thiếp nhìn lên trời, thủng thẳng :

- Thánh nhân sinh từ trong lòng. Mong thánh nhân là rồi có thánh nhân.

Hà công gặng :

- Trên có trời, dưới có đất. Giữa đất và trời có người. Nhưng đâu phải ai ai cũng có cái thiên mệnh làm kẻ
cứu đời. Liệu thánh nhân có sinh ra trong châu Hoan này không?

Thiếp ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời :

- Có, đủ lửa thì rồng sẽ cất cánh bay lên.

- Vùng nào đất nào đủ lửa ?

Thiếp cười :

- Nơi nào đủ người hiền thì nơi đó sẽ đủ lửa.

Nhìn ra dãy Giăng Màn nền xanh lam sừng sững phía sau, những chỏm núi thấp hơn của rặng Thiên Nhận nổi lên như những chiếc quạt bằng lụa mầu hồng tía giống hệt như trong tranh thủy mạc, Thiếp chậm rãi :

- Thế này làm sao lại chẳng có người hiền.

Thiếp đứng lên, ý muốn tiễn khách, xin hoàn tất cả tặng vật. Nằn nì mãi, Thiếp đành nhận chiếc bình đồng mun với hai cân chè búp. Ðưa khách ra cửa, Thiếp còn nhớ cặp mắt tròn to của một con bé lay láy nhìn mình, miệng cười chúm chím.

Lần ấy, Mây mới đâu chín mười tuổi. Con bé vẻ hiền lành thuở xưa sao nay lại leo lên Bùi Phong, người bê bết máu? Ðợi hết một tuần trà, nắng vừa lên đầu ngọn cây thì Mây tỉnh dậy. Mây cầm tay Ðặng-thị để lên ngực mình, rồi cúi đầu, nước mắt chảy ra, không nói năng gì. Một lúc sau, Mây xin lên gặp Thiếp. Nàng quì phục xuống đất, đôi bờ vai nhỏ nhắn run bắn lên như con giun đất bị xéo quằn, kêu thảm thiết:

- Nguyễn công ơi ! Thế thì trời không cao, đất không sâu, chỉ còn có người, người có cứu lấy Mây này bé bỏng không ?

Ðặng-thị đỡ Mây dậy, lấy khăn lau nước mắt cho Mây, tay nhẹ nhàng vuốt những sợi tóc rối bời. Cắn môi ghìm cơn nức nở, Mây kể...

Dưới triền tây núi Giăng Màn là bản Mê Hạ, thuộc mường Luang. Trước khi họ Hà đến Mê Thượng hai trăm năm trước, chỉ có một bản Mê gồm hơn trăm nóc nhà, chuyên sống bằng chăn nuôi và trồng trọt. Nước nguồn đổ về xuôi, xoáy vào đất, đục vào đá từ đời nào làm thành con sông Mê rộng độ ba mươi sải ngang, chẩy từ chân Giăng Màn qua mường Luang cho đến tận mường Rây. Có sông Mê, nước ê hề cho trâu bò, gà, lợn. Nước ê hề cho rẫy Luang quanh năm vàng ngô, xanh lúa. Nhưng chỉ ba năm sau khi đã đuổi được người Táy ở Bản Thượng khỏi chỏm Vềnh, Hà tộc đã sai tráng đinh xếp đá xây đập Cheo Reo chặn nước. Vì thế con sông Mê nay ráo kiệt. Nó cạn trơ lòng, chỉ còn phơi những tảng đá trắng tựa nhau đổ dài ra trên hai mươi dặm, giống hệt như xác một con trăn chết khô để xót lại trên mặt đất khúc xương sống ngoằn ngoèo trắng hếu.

Người Táy bảo với nhau : « Cái giống người gì mà ác thế, đi cắt mó, chặn nguồn làm trâu chết, lợn chết, khoai chết, lúa chết. Thế này thì người Táy cũng sẽ chết dần thôi ... ». Họ tìm cách phá đập. Hơn mười đời ông Trùm ông Chao, hơn mười lần trai Táy xách mai, xách thuổng, xách dao chằm đến Cheo Reo. Họ bảo nhau : « Phải tìm mó kíu nước, nếu không thì không có giống gì sống được ». Người trên bản Mê Thượng có súng bộc hỏa, lại canh giữ rất ngặt nghèo. Vì thế, cũng lại hơn mười phen họ phải khênh xác trai Táy về Mê Hạ. Duy có được một lần họ đánh bật đám tráng đinh Mê Thượng ra khỏi Cheo Reo. Họ thấy đập nước chia làm hai lớp, làm bằng những hòn đá tảng chồng lên nhau, hòn nọ dựa vào hòn kia, sức người không sao lay chuyển được. Vài bô lão còn sống kể rằng khi đó họ cho người Táy về mường lấy bộc lôi đến phá. Con trai Táy đào đường mương, dựa thế nấp vào, rồi dùng cung tên đẩy lùi những lần tiến công của con trai Kinh, cố giữ Cheo Reo được gần ba ngày ba đêm. Cuối cùng họ buộc được bộc lôi vào những gềnh đá đầu chĩa lên nhọn hoắt. Trai Kinh lúc đó đã tiến sát đến tuyến mương phòng thủ. Ông Phìa , người chỉ huy, hy sinh trai Táy, ra lệnh cho nổ bộc lôi. Bộc lôi nổ to đến rách toang màng nhĩ . Ðám voi rừng hoảng hốt vừa đâm dầu chạy vừa hống lên những tiếng tru chéo. Da thịt tóc tai trai Táy lẫn với sạn đá bay bốc lên trời, rồi rơi xuống làm rừng núi đỏ lè lè như lưỡi một trăm con ma thò ra liếm cây liếm cỏ.

Nhưng đập Cheo Reo vẫn cứ vô sự, nước chỉ rỉ rả chảy xuống, vô tình để mặc con sông Mê vẫn cứ mãi trơ lòng cạn kiệt như trước. Từ đó, người Táy tản ra xa, xuôi về đồng bằng, bỏ ý phá đập, và chỉ lúc ông trời ra cơn hạn hán mới lên đập xin nước vào những tháng giữa hạ, khi nước còn quí hơn cả vàng dát trên vòng cổ con gái Táy. Ðời này sang đời nọ, không biết nghe từ đâu mà họ kháo nhau rằng khi nào tìm được mật kíp của bản Mê Thượng thì người Táy mới biết cách phá đập.

Mật kíp như thế nào, chỉ có ông Chao của bản Mê Thượng, nghĩa là những người tộc trưởng họ Hà từ hai trăm năm nay, mới biết tận mắt. Theo lệ, mật kíp được trao tận tay ông Chao. Ông Chao cất giấu mật kíp ở Hang Sau, một nơi không ai được được phép vào. Chỉ khi nào bản gặp những khó khăn đến độ cả bản đòi thì ông Chao mới được mở mật kíp tìm lời giải. Theo lời truyền tụng, mật kíp do chính Hoàng Mười, một vị trong Bát Tiên , đã trao tận tay cho ông Chao sáng lập ra bản từ lúc tạo thiên lập địa. Chuyện thế gian đâu đó yên bài cho nên tất cả mọi việc từ cổ chí kim đã được tiên liệu trong quyển sách thánh này.

Lần gần nhất phải mở sách là lần cách đây hơn năm mươi năm, hai họ Hà và Lê xích mích vì một câu chuyện không đáng gọi là lớn. Trâu một người họ Hà tên là Hà Chiến dẫm nát mương họ Lê, họ Lê sang bắt đền. Họ Hà cậy thế mạnh không lý đến chuyện trâu dẫm, lại xách mé «... mương nhà nào, nhà nấy cứ giữ ! ». Lê Ân, tộc trưởng họ Lê, là một người nóng tính, lại giỏi nghề võ, đánh câu liêm rất tài tình. Ân giận căm gan, song chỉ cười nhạt, sập cửa bỏ về nhà. Dăm bữa nửa tháng sau, đàn trâu của Hà Chiến lại mon men đến mương họ Lê. Ân ngồi trong nhà quẳng câu liêm ra một lần đánh hai con trâu vỡ toạc đầu, hồng hộc kêu rồi chết. Chiến liền rủ một đám tráng đinh họ Hà đến vây nhà Ân liền hai ngày, bắn tên và định phóng hỏa đốt. Sáu đứa con trai của Ân, hai đứa bị thương nặng. Ân gào lên : « bớ ông Chao, ai phân xử đây ? » rồi phanh ngực, mắt đỏ ngầu, sừng sững xông ra, quát : « Có chết, ta sẽ kiện với diêm vương ! ». Tên bắn như mưa găm vào người Ân trông như nhím xù lông, song Ân vẫn không ngã, mắt trợn ngược lên, miệng ứa máu ra, chết đứng. Khi ông Chao bản là Hà Tuyên đến nơi thì cơ sự đã xảy ra mất rồi. Ðám con họ Lê quì xuống xin mở mật kíp. Cả bản thấy truyện thương tâm, bất bình với Hà Chiến, nên đồng ý.

Ðình bản Mê Thượng xây trên hai sào đất vuông vắn trước cửa Hang Sau, nơi cất giấu mật kíp. Lối vào Hang Sau là một ngách nhỏ, có cắm bảng gỗ đỏ đục hai chữ « Cấm Nhập ». Hà Tuyên vái trời, vái đất, rồi vái tượng Thần Bản, miệng lầm rầm đọc . Lách vào trong hang, sau khoảng một tuần trà, Tuyên ra sân đình cung kính nâng cái hộp bằng ngà trong có một quyển sách gáy da đã sờn. Hơn năm trăm người ngồi im lặng đợi. Tuyên quát : « Ðánh cồng lên » rồi quì xuống. Tiếng cồng dội vào giãy núi Giăng Màn, vọng lại từng hồi, nghe như sấm động. Tuyên mở sách trên án thư, mắt chăm chú. Khi tiếng cồng vọng cuối cùng tắt đi như tìm về âm u xa hút, Tuyên đọc : « Ai là kẻ gây sự bạo hành giết người trong bản thì cả nhà phải bỏ bản mà đi về phía Tây, trái lời phải tội chết ba đời, ai muốn giết cũng được ».

Năm ngoái, ngày Mây tròn mười bẩy, Mây rủ mấy đứa con gái đi tắm suối. Suối nằm ngay dưới đập Cheo Reo, nước xuôi xuống chỉ độ ba trăm thước là kiệt cạn. Buổi trưa nồng, gió ùa về từng cơn nóng rát. Mây lõa thể nằm ngửa ra cho nước ào vào tóc, vào mặt, vào yếm. Con Hường giạng chân, váy sắn đến bẹn, đùi thon chắc nhô lên thụt xuống, vừa cười vừa té nước tung tóe bắn thành những hạt óng ánh kim cương nhẩy múa dưới nắng trưa trong suốt. Con Hằng cởi yếm, tay giả như che phần trên cơ thể nhưng vẫn để cặp vú căng nứt nhô ra như sừng trâu, vắt vẻo ngồi trên một hòn đá trắng nhô lên trên nền toàn sỏi hồng, miệng hát

Chiều chiều em dẫn mẹ qua đèo

Em đi bên nớ

Tình tình ơi, anh theo bên nào ?

Chiều chiều dẫn mẹ đi theo

Tình, tình ơi

Nhớ ai em kiếm cuối đèo dấu chân

Tình, tình ơi

Nhớ ai em những khóc thầm

Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa

Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ

Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai ...

Một tiếng sáo đinh-bia bỗng nhiên vẳng lên từ đâu đó, xa vắng, mênh mang. Mây nhỏm dậy rỏng tai, ngước cặp mắt nâu thăm thẳm tròn trĩnh trên khuôn mặt trái soan rám hồng, môi hơi trề xuống, miệng mở hé như cười, chiếc răng nanh khênh khểnh lộ ra làm tăng cái vẻ nghịch ngợm của một cô gái vừa tuổi dậy thì.

Tiếng sáo véo von lên cao hun hút như chạm vào giải mây trắng, xô nhẹ bầu trời trong vắt rồi vẳng lại như lời tỉ tê kể lể một chuyến đi không đến đích. Tiếng sáo có lúc lại ríu rít như đàn chim bất chợt gập lại một mùa Xuân đã tưởng đánh mất, hót lên sự sống hồn nhiên mạnh mẽ tựa măng tre đục đá trồi lên. Tiếng sáo chợt thổn thức tựa như tiếng khóc tủi thân của đứa trẻ tứ cố vô thân bỗng dưng bắt gặp cảnh một mái nhà yên ấm. Tiếng sáo bỗng não nùng tiếng than của kẻ bất đắc chí ngại ngần soi gương nhìn mái tóc mình đang trắng xóa những đám lau già mỗi lúc một thưa đi. Tiếng sáo lúc sau đứt quãng, tức tưởi một nỗi buồn không an ủi được, rồi nghẹn ngào uất ức tựa như lời trăn trối của đám tử tù trước khi lên đoạn đầu đài. Tiếng sáo trầm sâu xuống kể lể nguồn cơn với ngọn gió vô tình đã từ hàng tỉ năm nay chuyên trở vào hư vô vô số những niềm bất hạnh. Tiếng sáo cuối cùng cuống quít, loanh quanh như con chồn gập bẫy, rồi hốt hoảng như đám nai tơ chạy tên đâm đầu vào bụi gai rạc.

Mây nằm xuống suối lắng nghe, cơ thể doãi ra như sắp tan biến trong không khí, để mặc nước mắt cứ ứa đầy mặt hòa tan vào dòng suối róc rách chảy. Mây ngạc nhiên không hiểu cớ sao mình khóc. Nhưng Mây cứ để mặc nước mắt đầm đìa chảy, mơ hồ cảm nhận như bắt gập lại một cái gì thật thân thương đã chót đánh mất từ lâu lắm, có thể là trước cả khi Mây ra đời, không nhớ được nhưng vẫn cứ lờ mờ lúc ẩn lúc hiện. Những giọt nước mắt ấy, tuy vẫn mặn sót như muối, nhưng làm sao lại khiến lòng Mây cứ lơ lửng giốâng như giải mây trắng đang lênh đênh giữa trời xanh văn vắt.

Sau hôm ấy, trưa nào Mây cũng ra suối thẫn thờ đợi tiếng sáo đã vô tình im bặt. Ba tháng ròng, Mây lẩm nhẩm cầu xin : « Ông Xanh trên cao kia ơi, cho Mây tiếng sáo kia nhé.. . ».

Lần nào Mây ra suối, Trần Trung cũng kín đáo đi theo. Từ dạo Trung bắt gập Mây trần truồng ưỡn ngực hứng con nước đổ từ ghềnh cuối Cheo Reo xuống vũng Cắt đầu nguồn sông Mê, Trung ngày đêm thẫn thờ, không thấy Mây là ăn ngủ không được. Mây bây giờ như người mất hồn, chẳng nói chẳng rằng, chiều chiều ra ngồi trên tảng đá, mắt lạc vào hun hút một khoảng không đầy bấp bênh. Trung hái một bó hoa rừng, lẳng lặng mang đến để cạnh chân Mây. Trung nhẹ nhàng : « Có chuyện gì thế hả Mây ? ». Mây cười buồn buồn, chỉ lắc đầu. Sáng hôm sau, Trung quay về chỗ tảng đá, thấy bó hoa vẫn ở đấy, chỉ héo đi trông tàn tạ thảm hại. Trung biết đã mất một cái gì thiêng liêng như chính cuộc sống của chính mình. Nước mắt dàn dụa chảy như suối tràn mùa nước lên, Trung bưng mặt ngồi cho đến hết đêm, mong gặp hổ báo cho rồi đời.
Cho đến một buổi tiếng sáo lại réo rắt đưa về Cheo Reo. Mây mừng đến run bắn người, mắt lại ướt lại những giọt nước mắt xưa. Mây lần theo gió đi tìm, nín lặng nép vào bụi rạc, mê mẩn đến độ gai đâm nát tay chảy máu mà không biết. Nhìn xuống chân chỏm Vềnh, Mây thấy thanh niên ấy nâng cây đinh-bia ngang miệng, mắt nửa nhắm nửa mở, hồn như lạc vào chốn không núi rừng, không cây cỏ, không cả đất, cả trời. Quấn chiếc rông màu xanh thẫm, thân trần cuồn cuộn những bắp thịt đồng mun, tóc dài hoe đỏ phần phật bay trong gió nồm, chàng có thật hay chỉ là ảo ảnh một cuộc đi về từ cái cõi lờ mờ giữa trần thế ? Chàng ngưng thổi, tay vỗ nhẹ vào chiếc sáo bầu tròn, hát :

Gió thổi bụi na

Khăn đào của ai phơi sàn gió thổi

Gió thổi khăn rơi

Khăn rơi khăn rơi xuống mặt đường

Bạn tình ơi

Người đẹp của ai

Hoa trắng nơi vườn dưa

Hoa đỏ nơi vườn mía

Áo em tô dấu son

Thân em hồng màu rượu

Miệng em chúm chím hoa sen

Tóc em hoa đào chải gió

Tay em níu chĩu cành mai ...

Mây ngày nào cũng ra đợi ở chỏm Vềnh cho đến khi Ðèo Kha linh tính thấy mình là một con thú đang bị rình săn. Một hôm, Mây nấp sau thân cây sim già, mắt ngóng, lòng thấm dần nỗi thất vọng và niềm đau xót lửng lơ, không thấy bóng dáng Kha đâu cả. Về chiều, chim bắt đầu nháo nhác bay, ánh tà dương lịm vào cây cỏ tô đậm cánh rừng vòng theo niềm nhớ đã chớm vô vọng. Chợt vai Mây có bàn tay nào nắm lấy, bóp mạnh như gọng kìm sắt, ghì xuống. Mây thất thần quay lại, mái tóc búi xổ tung ra thành thác đổ trào xuống, mắt hoảng hốt căng tròn như nai mắc bẫy. Bàn tay nới lỏng dần ra, Mây nhắm mắt, miệng hé ra, nhếch cười trong cơn mê, cảm thấy đôi môi ướt át áp vào má mình, mặt mình, rồi tai, rồi cổ, lần lần xuống vú, xuống bụng cho đến lúc nàng bật dậy, kéo vội chiếc rông quấn phần dưới cùng của thân thể không biết đã tụt ra từ lúc nào.

Sau này, Mây nũng nịu bảo với Ðèo Kha rằng cuộc gập chiều ấy là giải dây ông Trời buộc, đố ai cởi cho ra. Những lần hẹn hò nhau , Mây và Kha tìm nơi hoang dã, tránh cho xa dân bản, nhưng điều tiếng đã có chút xôn xao. Mây thỏ thẻ : « ... biết đâu ta về ở với nhau rồi thì Mê Hạ và Mê Thượng sẽ lại là một bản Mê như những ngày xửa ngày xưa ». Ðèo Kha, mồ côi từ bé, về xin phép ông chú đã nuôi mình thành người. Ðèo công ở bản Mê Hạ chần chừ. Cái mối oan nghiệt giữa Mê Thượng và Mê Hạ vẫn sừng sững ở Cheo Reo, chặn nước không cho lòng người thông được với nhau. Ông đoan chắc họ Hà ở Mê Thượng sẽ không bao giờ nhận kết nghĩa thông gia với Mê Hạ. Ðèo Kha giục Mây hỏi ý bố mẹ. Mây cũng sợ, nói liều : « ...hay là Kha bắt em mang đi ». Kha lắc đầu bảo : « nếu làm thế thì chắc chắn đinh Mê Thượng sẽ tìm đánh Mê Hạ » , máu sẽ chảy ra thay cho nước sông Mê đã cạn sạch trong cái lòng sông ráo kiệt. Mây càng sợ, bóp bụng định tâm nói trước với mẹ. Nghe Mây nói xong, Nguyễn-thị chỉ thở dài lắc đầu. Ðợi thêm một tháng, Mây cắn răng, mặt nhợt nhạt, ấp úng thưa với cha. Vừa nói được hai câu, Hà công đập ngay chiếc tách trà đang uống xuống đất, bảo :

- Nó người Táy, đâu phải người mình ...

Thuận tay, ông tát Mây một cái trời giáng, tiếp :

- Mày là con tao thì tao chọn rể¨.

Hà phủi tay chống nạng đứng dậy. Từ đó, ông cấm Mây xuống suối, ra lệnh cho Trần Trung dẫn tráng đinh đi kiểm soát nghiêm mật đập Cheo Reo. Trần Trung lòng vẫn yêu Mây say đắm, sai người mai phục định giết
Ðèo Kha một lần, nhưng Kha thoát được. Về phía Mây, miệng ngậm tăm chẳng nói chẳng rằng, nàng không
ăn không ngủ gần một tháng, thoi thóp nằm chờ chết. Nguyễn-thị quì xuống chân Hà công, xin :

- Nghiệp con nó thế, cấm thì nó chết mất, sau lại báo oán vào mình, xin ông nghĩ lại.

Hà công vào nhìn con gái, lòng hận như chính mình bị tình phụ, ứa nước mắt đi ra, bảo :

- Làm thế nào thì làm, nhưng ta thách cưới một thớt voi, sáu trâu, sáu bò, vàng hai mươi lạng và hai trăm
thước lụa Hà.

Ðược tin, Ðèo Kha thừ người ra, bảo với Mây « ...chẳng phải chỉ bản Mê Hạ, cho cả hết Mường Rây dưới
kia gọp lại cũng chưa chắc đã có đủ bằng ấy đâu ». Mây ôm lấy Ðèo Kha, miệng cắn vào vai đến bật máu. Ðèo Kha ứa nước mắt, lẳng lặng gỡ tay Mây rồi lủi thủi xuốâng dốc về Mê Hạ nói chuyện với chú. Ngay tối hôm ấy, Ðèo công cho mời ông Chao, rồi bàn tính thế nào, cả hai người dẫn Ðèo Kha lên gập ông Phìa chủ quản khắp Mường. Sáu ngày sau, Ðèo công xin đưa trước ba trâu, ba bò, và mười lạng vàng, cho Ðèo Kha lên làm ¨ côn hươu ¨ để thử rể, và hẹn sang năm sau sẽ nộp đủ lễ cưới Mây về Mê Hạ.

Ngày Ðèo Kha lên Mê Thượng là ngày Mây hoàn toàn bình phục. Mây ôm chân bố, hôn tay. Hà công lạnh lùng bảo :

- Ðủ lễ, cưới ngay, rồi mày cút đi đâu thì đi.

Ðèo Kha làm đủ việc phục dịch trong nhà, đêm ngủ ở quản, dưới chân nhà sàn, gần chuồng gia súc. Những đêm mưa rỉ rả, mùi phân trâu, phân lợn lẫn vào mùi rơm rạ ẩm ướt bốc lên thối đến phát ọe. Khi đó, Ðèo Kha đành mò ra chân sàn, quấn mình trong chiếc chăn đơn, thu lu ngồi trong mắt chờ sáng. Ðỉnh Giăng Màn, lúc ẩn lúc hiện, trở thành một người lỡ độ đường đến đánh bạn. Kha hỏi :« ... núi ơi ! Thế nào là tình yêu ? ». Một cánh chim đêm xào xạc đến trả lời : « ... là sự không bao giờ chọn vẹn ! ». Kha quát khẽ : « Ta đâu hỏi mi, ta hỏi núi... ». Nhưng đỉnh núi sừng sững cứ lặng im. « Có phải đó là sự cô đơn đôi lứa ? »,
Kha gặng hỏi. Ðỉnh núi sừng sững vẫn lặng im.

« Hay đó chính là vết cào của định mệnh ? ».

Ðỉnh núi vẫn lặng im. Run lên cầm cập, Kha biết vết cào đang ứa máu, kéo chăn trùm lên đầu, nước mắt trào ra, miệng lẩm bẩm : « ... Mây ơi, sao móng tay Mây dài thế ...».

Ðến lúc hương nồng thoáng chút mùi hăng hăng ùa vào mũi, Kha mới kéo chăn, ngoái nhìn ra sau. Nhẹ như bước chân hoẵng, Mây đã ra đó tự bao giờ, hai bàn tay lùa vào mớ tóc Kha còn vương chút sương muối giá buốt. Mây đưa ngón tay để lên môi ra dấu. Kha nắm lấy tay Mây, lòng bồi hồi, vết cào bỗng chốc lành lặn bằng phép lạ. Mở rộng chiếc chăn để Mây ngồi vào lòng mình, Kha không nói năng, hồn trầm lắng vào hơi ấm người yêu đang sưởi cả núi rừng Mê Thượng. Mềm nhũn trong vòng tay Kha, Mây chợt thấy mình bé bỏng, nhưng nỗi sợ hãi không biết thế nào cứ tan đi chứ không như lúc Mây luồn khỏi chăn rồi rón rén leo thang xuống, chỉ sợ đánh thức cha mẹ mình nằm ở trong góc sàn. Mây cởi khuy áo Kha, luồn bàn tay vào mơn man lồng ngực căng nức phập phồng trái tim đang bốc lửa. Không gian thu hẹp đến độ chỉ còn có hai người, mơ hồ khói sương bốc lên từ mặt đất ẩm ướt trở thành lớp tường thành vây bủa bảo vệ cho chuyện tư riêng. Mắt Kha lóa sáng, mũi chàng chỉ thấy hương nồng thơm mùi con gái dẫu rằng chuồng gia súc vẫn bốc mùi phân, và không biết tự bao giờ tay chàng xoay Mây ngồi áp mặt vào mặt, vào ngực mình. Mây ngây ngất bíu vào vai Kha, mặc để cái phần nhớt nhát của cơ thể mở ra đón nhận Kha, run rẩy, rồi hung bạo, như con lươn gặp cạn vùng vẫy trườn lách lên tìm sự sống.

Tiếng động dưới chân sàn kéo một người ra khỏi giấc ngủ chưa đủ say. Nhổm mình dậy, Nguyễn-thị ngó quanh, tai lắng nghe tiếng rên rỉ vọng lên. Mắt nhìn về phía Mây vẫn ngủ, Nguyễn-thị biết là con gái không còn đó. Ngẫm nghĩ một lát, thị lại nhẹ nhàng đặt mình xuống, nhưng Hà công vừa quay lưng lại, miệng lầu bầu, chắc lại sắp ngồi lên tìm chiếc điếu cầy. Nguyễn-thị chột dạ. Thình lình, thị ôm bụng Hà công, kéo vật về phía mình, động tác vừa nhanh, vừa quả quyết. Hà công ngạc nhiên nhưng chưa kịp hỏi thì Nguyễn-thị đã đè xấp lên, tay giật giải rút, tay kia nắm ống quần kéo xuống. Nhếch mép trong bóng tối, Hà công hai tay nắm lấy xương chậu của vợ, thầm nhủ « ...chắc mụ nó hồi xuân », rồi lẳng lặng nhấc hạ bộ Nguyễn-thị đặt lên trên người, cười ư ử trong họïng. Mặt sàn quậy lên gặp một cơn địa chấn, gỗ nở kêu răng rắc, và tiếng cười ư ử lát sau thành tiếng gầm gừ, rồi tiếng Nguyễn-thị kêu « giời ơi là giời ...».

Mây ghé răng cắn chặt vào vai áo Ðèo Kha, tai văng vẳng tiếng sáo đinh bia theo gió đưa về từ một miền xa lắc nào đó có tiếng gọi giời. Giặng Giăng Màn nhập nhòa trước mắt cứ nhô lên hụp xuống như lưng một con ngựa đứt cương đang lồng lên chở hết xương thịt Ðèo Kha mang nhập vào cái thân thể bần bật nhựa sống của nàng. Ðèo Kha bỗng ưỡn lên, miệng hự, rồi chân tay doãi ra, mắt dại đi. Mây cảm thấy mình vứa hứng trọn ngọn nước sông Mê tràn đến đập vào Cheo Reo, bọt trắng vỡ tung tóe, và tiếng gọi giời làm bầu trời vẫn đục nước bỗng xà xuống ôm ấp che chở nhân gian. Nàng mở mắt. Lay Ðèo Kha, Mây khẽ bảo : « Nhìn kìa ». Lẫn trong những hạt mưa là bụi kim cương lóng lánh đang hàng hàng lớp lớp rơi xuống bám lên đầu cây ngọn cỏ. Từ đỉnh xuống đến chân núi, Giăng Màn sáng lung linh bảy màu, bỗng chuyển động vòng quanh bản Mê Thượng như mọc cánh. Mở mắt, Ðèo Kha ngơ ngác. Mây hỏi : « ... có thấy gì không ? ». Chẳng hiểu nhìn thế nào mà Ðèo Kha se sẽ gật đầu, rồi lại nhắm mắt lại.

Cho đến hết mùa đông, Ðèo Kha mới bắt được nhịp sống « côn hươu », từng bước hội nhập vào một xã hội còn lạ lẫm. Có chuyện gì Kha cũng chỉ hềnh hệch cười giả lả, nuốt mọi nhục nhã đớn đau vào bụng, lúc nào cũng sẵn sàng làm vừa lòng mọi người trong khắp bản Mê Thượng. Trẻ con dậy Kha chọ chọe tiếng Kinh, cười ầm lên trêu chọc, mặc Kha cứ ngẩn người ra nhìn về phía Mây như cầu cứu. Chiều chiều, sau bữa cơm, Kha lại mang đinh-bia ra thổi. Tiếng sáo hay đến độ ít lâu sau cả bản đâm nghiện, vắng nó thế nào là cũng có người băn khoăn xáo xác đi tìm Kha. Một thời gian sau, hầu hết mọi người đều nhận Kha như người trong bản, trừ Hà công và dĩ nhiên là trừ Trần Trung, người đã phải lòng Mây từ lúc nàng mới mười lăm. Trung nghe không chịu nổi tiếng sáo, lên xin Hà công cho phép mình rời bản về xuôi. Hà công nhìn Trung đăm đăm rồi nói :

- Muốn có thì phải cướp. Có cướp được, ta cho cướp đấy. Việc gì phải vội đi. Mình mất người mất của chớ có phải kẻ cắp đâu.

Trung nghe hiểu, cám ơn Hà công.

Hai ngày sau, khi Ðèo Kha đang thổi sáo, Trung lại gần, mắt nhìn tròng trọc vào mặt, môi mím chặt, gân
xanh nổi trên thái dương giật lên bần bật. Bất ngờ, Trung giằng cây đinh bia, quẳng xuống đất, miệng gầm
gừ :

- Tao cấm mày thổi sáo !

Ðèo Kha nhìn lên, lẳng lặng nhặt sáo, bỏ đi không nói lại một lời. Từ đó, tiếng sáo bằn bặt đến một tuần
trăng. Bọn con Hằng, con Hường đến chơi với Mây, tìm Ðèo Kha hỏi duyên cớ. Kha nhìn Mây, đáp :

- Sáo câm mất rồi !

- ???

Mây không nhịn được, bật miệng :

- Cứ thổi đi. Tiếng sáo sẽ động lòng trời.

Con Hằng chêm thêm :

- ... và cảm hóa lòng người.

Bọn trẻ con trong bản hùa vào :

- Anh Kha, thổi đi, tội tình gì chúng em chịu.

Thở dài, Kha nhìn quanh rồi nâng niu cây đinh bia, đặt lên môi, mắt hướng về phía núi rừng xa xăm. Tiếng sáo lại cất lên, nhưng có gì nghe như ngào nghẹn.

Tiếng quát giật giọng khiến mọi người thảng thốt nhìn lại, nhận ra Trần Trung vừa ở đâu xô ra. Không nhìn Mây, Trung rít lên :

- Ai cho mày thổi ?

Xông vào, Trung với tay giật nhưng Ðèo Kha đã nhanh tay giấu cây đinh bia ra sau lưng, lùi một bước. Khi Trung rút con dao quắm đi rừng ra thì mọi người đều chạy lại chen vào giữa. Trung hậm hực, cảm thấy cả bản đang bỏ rơi mình, quát nghẹn ngào :

- Rồi tôi sẽ giết nó ! Ðể xem ...

Mây lẳng lặng đứng nhìn Trung, nhìn Kha, nước mắt chan hòa nhỏ xuống mũi, xuống má. Nàng linh cảm rồi đây bất trắc còn nhiều, và bỗng nhiên nàng chạy đến quì dưới chân Trung, miệng van :

- Cho Mây xin, cho Mây xin ...

Không nhìn Mây, Trung quày quả bỏ đi. Tối hôm đó, Nguyễn-thị kể lại câu chuyện cho Hà công nghe, hỏi: «...nay phải làm sao ? ». Hà công lơ đãng :

- Chuyện trẻ con, không dính đến mình. Mặc chúng ...

Một hôm, Ðèo Kha một mình đi lấy củi trong rừng ven chỏm Vềnh. Ðang chặt, Kha thấy rờn rợn, vội cúi xuống thì một mũi tên bay đến cắm ngay vào thân cây. Kha luồn ra sau cây, lặng lẽ trườn mình như trăn, tay nắm đốc dao. Trần Trung bắn hụt, chồm lên cầm kích thận trọng bước tới. Vừa đúng tầm, Ðèo Kha xông ra đâm một nhát. Dao đi lệch đường, toạc rách áo Trung. Trung vòng người đâm ngược ngọn kích lại, gầm gừ, rồi quét ngang kích vào chân Kha. Kha ngã xuống nhưng lại lủi ra sau thân cây, thuận tay chặt một cành ngang dùng làm gậy. Hai người quần nhau không biết bao lâu, nhưng mãi đến giờ cơm chiều vẫn không thấy ai về cả. Hà công cho tráng đinh đi tìm thì thấy Kha bị đâm một kích vào đùi không đứng dậy được. Gần đó, Trung nằm sóng xoài, đầu dập nát, máu tươi còn loang đỏ trên đám cỏ xanh bị đạp nhầu.
Khi chôn Trung xong, Mây đặt một vòng hoa lên mồ, nước mắt ứa ra, khấn : «... sống khôn, chết thiêng, hãy về nơi cực lạc, xin đừng vì tình kia mà đeo đuổi ».

Tuy vết thương chưa lành hẳn, Ðèo Kha lấy cớ giỗ ông xin về dưới Mê Hạ. Ðèo công nghe Kha kể chuyệân xung đột với Trần Trung, thở dài rồi ôm cổ cháu miệng thầm thì. Kha chăm chú nghe, cứ lắc đầu quầy quậy. Ông nghiêm sắc mặt, tu một hơi rượu cần, thở ra rồi gằn giọng :

- Thế thì mày đừng đi nữa ...

Ðến lần thứ ba, Kha ôm lấy chân Ðèo công, rơi nước mắt thì thào thế nào mà mặt mũi Ðèo công rạng rỡ hẳn lên. Ông vội vã tìm gập ngay ông Chao bản Mê Hạ, rồi cho người chạy lên báo cho ông Phìa của Mường Rây. Hai ngày sau, ông gọi Ðèo Kha ra, nhỏ nhẹ bảo :

- Thớt voi có rồi, bây giờ chỉ đợi người đi dưới Kinh mua lụa về là đủ.

Hôm sau, Ðèo Kha lên đường về Mê Thượng.

Ðêm tân hôn được sắp đặt vào đúng đêm trăng tròn lần thứ bảy. Ngày trước đó, chính Ðèo công đích thân
mang đủ lễ vật lên Mê Thượng. Thớt voi thách cưới là một con voi trắng đã dậy thuần thục. Ðèo công vỗ đầu nó cười bảo :

- Chủ mới đây, quì xuống.

Hà công chống nạng đu lên mình voi, rồi vỗ hai cái vào lưng, con voi đứng dậy rống lên, vòi vươn ra dài
đến năm trượng. Hà nghếch mặt cười, oang oang nói :

- Ða tạ, voi này thì thật là xứng !

Lễ tơ hồng được làm ngay ngày hôm đó. Nguyễn- thị ứa nước mắt bảo con gái :

- Thế là mẹ con mình còn được ở với nhau thêm một ngày nữa.

Sáng hôm sau, người bản Mê Hạ ra về. Theo lệ Táy-khao, tối hôm tân hôn, mọi người phải uống thật say, rồi chú rể phải ¨ đánh cắp ¨ cô dâu mang về nhà chồng. Mây nghe vậy chỉ cười. Bọn con Hường, con Hằng, rúc rích, chỉ mạêt Mây bảo : « ... sướng nhé, chôn kim nay đà có chỉ, mà lại chỉ hồng, gớm ới là gớm, nhưng sướng ơi là sướng ! ». Trong bản, người ta vật trâu, vật lợn ra xẻ cho bữa tiệc ban tối. Những lu rượu cần bày lũ lượt trong sân nhà Hà công, bốc mùi ngây ngất nồng như khích động tiếng reo tiếng hò của bọn trẻ con nách cắp những bánh pháo hồng chỉ đợi dịp để đốt. Ðèo Kha ngượng nghịu khều Mây đi về phía sau quản.

Ngồi riêng với Mây, Kha ghé vào tai nói nhỏ. Mây bỗng đơ người ra, mắt ngước lên hoảng hốt nhìn Kha. Tròng mắt ngấn nước, Mây miệng mím chặt, lắc đầu. Kha lại nói. Mây vẫn mím miệng. Ðèo Kha rút dao cắt vào đầu ngón tay. Mây hốt hoảng. Nhanh như chớp, Kha nắm tay Mây liếc nhẹ đầu dao, ngón tay Mây chảy máu. Ðèo Kha áp tay mình vào tay Mây rồi đưa cả hai ngón tay máu me vào miệng mình. Mây khóc. Kha đưa hai ngón tay vào miệng Mây. Máu dây ra khóe miệng Mây, chẩy xuống hai vệt dài. Kha lại nói, mặt chan hòa nước mắt.

Trăng lên ngang đầu đã tròn vành vạch. Từ đỉnh Giăng Màn nhìn xuống, dãy Thiên Nhận xa xa được bao phủ trong màn khói sương, trắng tựa pha lê, lơ lửng nửa như muốn chìm xuống nửa như muốn bay lên. Chim muông xào xạc bay vù qua rục rịch bữa ăn đêm. Côn trùng bắt đầu nỉ non, và tráng đinh bản Mê đã có kẻ say khướt. Trong gian nhà họ,ï Hà công xếp bằng tròn ngồi giữa, bên phải là cây nạng gỗ mun, bên trái là Nguyễn-thị đương ẵm đứa con út tên là Lữ. Ngoài Lữ và Mây là gái đầu lòng, Hà gia đã sinh hạ hai đứa trai giữa. Thằng lớn độ mười tuổi, nhâng nháo tay với cần uống rượu. Hà công lừ mắt, nó nhanh như cắt ngồi lùi ra đằng sau. Thằng bé hơn, chắc độ năm, sáu tuổi, ngồi cạnh mẹ, mắt đảo lên nhìn mọi người, mặt lạnh như tiền trong cái huyên náo của những chiếu rượu có đôi người say đã ngã gập đầu xuống mâm. Trước mặt gia đình họ Hà, phía bên kia chiếu, là Ðèo Kha và Mây. Mây lại vào xách ra hai lu, một lu Mây đặt trước mặt Hà công, một lu trước mặt Kha. Hà công nghĩ thầm : « Thách cưới đến thế tưởng chúng nó sức nào lo được ! Mà thôi, số nó vậy » rồi xua tay, cắm cần vào lu rượu. Kha vái tạ, và nâng cả lu lên, nói : « Kha này bây giờ là con rể của Mê Thượng, nếu bố vợ tôi cho phép và cả làng ưng lòng thì xin ba tháng sau chúng tôi lại về đây sống với bản ... ». Nói xong, Kha tu rượu ừng ực, và ngã lăn ra chiếu. Trong số tráng đinh, một người cười ầm lên và bảo : « Say thế này thì đánh cắp thế nào được cô dâu » và giúp Mây dìu Kha ra chái sau nhà họ. Người ta lại hò nhau bưng thêm rượu và thịt trâu thui.

Có dăm ba người đứng dậy lảo đảo múa rồi hát theo điệu chầu văn bài «Giá ông Hoàng Mười về Hồng Lĩnh ».

Khi người tráng đinh vừa ra, Ðèo Kha nhỏm ngay dậy. Những lu rượu Kha uống chỉ toàn là nước lã. Kha nắm tay Mây, hôn lấy hôn để vào mặt, rồi kéo Mây mở cửa trái và lẩn vào bóng những cây rạc cạnh gian nhà họ, chạy về phía đình bản. Khi Mây thấy tấm bảng ¨ Cấm Nhập ¨, nàng khựng người lại, nhưng Ðèo Kha kéo nàng vào ngách Hang Sau. Hang tối mù mịt. Ðèo Kha đốt cây đuốc đã sắp sẵn mang theo. Dơi trong hang vừa bay ra toán loạn vừa kêu eng éc như lợn con. Kha cắm đuốc vào vách đá rồi hỏi Mây :

- Mây ơi, sách ở chỗ nào?

Bấy giờ Mây ngồi phệt xuống, thừ mặt ra, nước mắt chan hòa :

- Thế này thì em mất bố, mất mẹ, mất cả ba đứa em rồi !

Ðèo Kha hốt hoảng :

- Vợ anh ơi, có sách thì ¨ kíu ¨ được nước, khơi ¨mó ¨ đỡ được cho dân mường dân bản, làm phúc làm đức cho con cháu mình sau này. Xong việc, vợ chồng mình sẽ mang mười thớt voi, một trăm lạng vàng, một nghìn lạng bạc đến xin với bố mẹ Mây để tha tội ... Rồi Mây xem, tội sẽ được tha, Mây sẽ đẻ cho anh mười đứa con trai, mười đứa con gái... Anh lạy mình, mình ơi .. gấp đi, kẻo trễ, không đợi được nữa đâu!
Mây nhớ lại thuở trước khi ba đứa em ra đời, Mây được chiều vì là con một, Hà công đi đâu cũng cho Mây theo. Một hôm Hà công dặn Mây chơi ở ngoài rồi vào ngách Hang Sau. Mây không nghe, mò theo bố. Khi Hà công thấy Mây, ông đang mở mật kíp ra đọc. Phát giận, ông tóm lấy Mây, dang tay đánh vào đít, vừa gầm gừ vừa cẩn thận nhét quyển sách vào lại một hốc đá nằm khoảng ngang ngực phía bên phải bệ thờ thần Hang.

Mây ngước mắt về phía cái hốc đá, ngần ngừ quay sang nhìn Kha. Mặt Kha căng cứng ra trong niềm hoang mang, mồm tiếâp tục giục, mắt nhìn Mây cầu khẩn van lơn. Nàng đứng dậy, đi ba bước, đưa tay thờ thẫn chỉ. Ðèo Kha chồm lên, bới cục đá chặn hốc, thò tay vào, rồi rú lên, lôi ra cái hộp ngà. Mây nhìn Ðèo Kha mặt mũi méo xệch đi vì đau đớn và sợ hãi. Mặc bàn tay chảy máu như bị dao đâm, Kha tay kia mở hộp, nâng quyển sách lên ngang trán, nói : « Ðây, đây...» rồi hộc lên kêu trời « Ới Then ơi...Then !». Lưỡi Kha bỗng cứng lại, người ngây đờ ra, chỉ còn cặp mắt vẫn căng lên nhìn Mây, dãi phòi ra miệng, thều thào : «... Mây...Mây...». Mây hoảng hốt nhìn bàn tay chảy máu của Kha đang sưng vù lên và đổi sang màu đen sậm. Vực đầu Kha dậy, Mây cố tìm sự sống trong cặp mắt bắt đầu đang lạc đi, rồi trơ ra như mảnh thủy tinh vô hồn đục sệt của một cái chai vừa vỡ. Sự sống mỏng mảnh đó cứ lạnh dần trong vòng tay Mây cố trì kéo vô vọng. Tiếng vó ngựa dồn dập từ xa mỗi lúc một gần. Bản năng đẩy Mây bật dậy. Nàng vội buông xác Kha xuống, cầm lấy quyển sách kẹp chặt vào lưng váy chẽn, rồi dụi đuốc. Tiếng nạng gỗ chống lên nền đá đình bản nghe thình thịch. Mây lẻn thoắt ra ngách Hang Sau, chúi người vào một bụi cây, vừa lúc Hà công đến.

Nghe tiếng dơi kêu, Hà công đang ngà ngà rượu nhưng còn đủ tỉnh táo, đứng bật dậy, lẳng lặng ra trái sau. Không thấy Mây và Ðèo Kha, ông lật đật về sàn, sách theo cây mác rồi chống người vào nạng đu lên lưng con ngựa vẫn buộc ở lối vào. Linh tính báo điều chẳng lành, Hà công phóng thẳng đến đình bản, chống nạng đi ra Hang Sau. Ông thở hổn hển, bật hồng đánh đuốc lên, rồi kẹp vào tay nạng. Tay kia, Hà công lăm lăm giơ cây mác, bước từng bước vào ngách hang. Ông quát : « Chúng bay đâu ? con Mây đâu ...». Tiếng quát vọng ngược trở lại, ầm ầm đánh vách núi rồi văng ra xa tít tận góc rừng. Hà công vào đến trong hang thì chỉ thấy xác Ðèo Kha. Ông nhìn bàn tay Ðèo Kha nhiễm độc đen thùi, cười khẩy, lấy vải cuốn tay mình rồi cẩn thận thò vào hộc đá. Tiếng người lao xao nghe đâu đã gần, Hà công mím miệng, dắt mác vào người rồi lôi xác Ðèo Kha ra ngoài. Ðến cửa ngách, Hà công gầm lên, tay nạng dơ cao quật xuống đầu Ðèo Kha, rồi ngã bệt xuống đất. Tiếng xương vỡ rào rạo. Máu bắn lên miệng Hà công nhuộm đỏ những sợi râu chớm bạc. Khi bọn tráng đinh vây quanh, Hà công vừa thở vừa nói : « Nó định phạm luật Cấm Nhập vào hang, ta đánh chết nó rồi ».

Nguyễn-thị tất tả đến, hỏi dồn :

- Con Mây nó đâu ?

Hà thét lên :

- Bay đi bắt cho ta đứa con bất hiếu, bắt sống cũng được mà chết cũng được !

Ðợi cho mọi người đi hết, Mây chui ra khỏi bụi. Không dám nhìn xác Ðèo Kha đầu bị đánh vỡ toác ra, óc trắng lều bều như nổi lân tinh dưới ánh trăng, Mây vái ba vái rồi đi nhanh xuống núi. Nàng tính là bọn tráng đinh đuổi theo đường về Mê Hạ nên quyết định đi ngược về núi Bạch Tượng. Ðầu nàng lúc đó tỉnh táo đến độ nỗi căm hờn lịm hẳn xuống. Sống, phải sống đã. Sống để trả hận cho Ðèo Kha đã chịu chết hai lần, lần chết sau thân thể không vẹn toàn, đầu óc nát nhè dưới cây nạng mun đầu bịt sắt. Bây giờ về đâu? Về nơi nào an toàn? Làm sao trả được mối hận của Ðèo Kha? Mây nhớ lại đã gặp Ðặng-thị bẩy năm trước, khi cùng bố mẹ đến Nguyệt Ao để khẩn cầu một lời của Nguyễn công, kẻ người đời gọi là Cuồng ẩn. Bà lúc nào cũng dịu dàng từ tốn, hẳn có một sức mạnh tiềm tàng vững chãi tựa bãi bờ để thả neo thuyền. Sức mạnh ấy lại bất ngờ rõ nét hiện ra hệt như lúc Mây linh cảm khi nhìn trời rồi đoán ra mưa ra gió. Dịp cưới Mây, tráng đinh có mang thiệp mời đến Nguyễn Thiếp và về báo là gia đình Nguyễn đã lên trại Bùi Phong. Văng vẳng bên tai, Mây nghe như có tiếng Ðèo Kha giục, cứ đi đi, ở phía trước mặt kia kìa. Mây vật vờ nhắm đỉnh Thiên Nhận hướng tới. Sau hai ngày trèo núi, Mây kiệt sức ngất đi lúc nửa đêm. Sáng nay, trước mặt vợ chồng Thiếp, Mây gom hết nghị lực để kể cho hết mọi sự tình.

Thiếp thở dài nhìn Ðặng thị, rồi quay sang Mây, mắt dọ hỏi. Mây đập đầu xuống đất :

- Nếu đập Cheo Reo phá được, nước lại đầy sông Mê, thì chắc linh hồn Ðèo Kha cũng được mát mẻ.

Thiếp trầm ngâm :

- Tại sao Mê Thượng làm đập chặn nước ?

Mây không biết, chỉ vào quyển mật kíp :

- Tất cả mọi chuyện trước sau đều nằm trong này...

Thiếp đưa sách cho Mây, nhỏ nhẹ :

- Cháu mở ra mà xem.

Mây mím môi, mở sách, mắt ánh lên một niềm ngạo mạn khó định tên. Mây lật một trang, rồi hai trang, ba trang ... Mây luống cuống lật nhanh, lật nhanh nữa, mặt cứ tái dần đi, trở thành xanh mướt. Quyển sách chỉ toàn là những tờ giấy trắng có vân ngà, từ tờ đầu đến tờ cuối trốâng trơn không một chữ. Mây ngật người ra khóc, kêu lên :

- Trời cao đất dầy ơi ! Tôi mất chồng tôi vì một thếp giấy trắng ... Ðèo Kha ơi, làm sao kíu nước bây giờ ?
Mây lại ngất đi. Khi tỉnh dậy, Mây chạy ra ngoài thềm đập đầu vào tảng đá núi, mong thoát kiếp nhân sinh. Ðặng-thị kéo Mây lại được, nhưng những lời khuyên bảo cứ như nước trôi sông. Ðộng lòng thương đứa con gái vừa toan vất bỏ cái quí nhất là sự sống, Thiếp chau mày bực bội mường tượng ra những cuộc chém giết vì kíu nước. Thiếp băn khoăn không hiểu vì lẽ gì quan trọng đến độ đã khiến những kẻ xây đập Cheo Reo chặn nước từ hai trăm năm nay. Có thực chăng cái mạch rồng thiên hạ đồn đãi ở đất Hoan Châu ? Và nếu thực, liệu nó có liên hệ gì chăng với cuốn mật kíp mang hình dạng một thếp giấy trắng tinh không có đến một vết chữ ? Bao nhiêu câu hỏi ùa đến làm đầu Thiếp nóng bừng lên. Không cưỡng lại được một sự thèm muốn réo sôi trong lòng thôi thúc, Thiếp bật miệng:

- Thêm mọât ngày nữa, may ra ta có thể hiểu được những tờ giấy trắng trong mật kíp.

Suốt hai ngày sau, Thiếp lẳng lặng cầm quyển sách chăm chú nhìn từng trang, ngửi từng trang. Sáng ngày thứ ba, nắm tay Mây, Thiếp thở ra rồi nói :

- Cháu tạo nghiệp cho ta đây. Thôi, tờ cuối cùng của mật kíp có mùi dầu là. Cứ ngâm vào nước, ắt biết.
Mây xé tờ giấy rồi y lời, thấy hiện ra đồ hình nhìn đúng là những cục đá tảng xếp lại, dựa lên nhau, và một dãy chữ li ti « Thượng nhị hữu tam hạ tả tứ lục ». Thiếp chăm chú nhìn, lẩm nhẩm đếm rồi chỉ vào một nơi, nói chậm rãi :

- Chỗ này là chỗ phá được.

Mây quì xuống chân Thiếp lậy tạ. Khi ngửng lên nhìn, ánh lửa trong mắt Mây nóng đến độ có thể thiêu cháy được cánh rừng trước mặt chỏm Bùi Phong.

Ra bờ ao ngồi cạnh vợ, Thiếp vuốt tóc Thúc Khải đang chập chờn ngủ trong lòng Ðặng-thị, mắt hướng về phía đông nơi chập chùng rặng Thiên Nhận. Xa tít tắp, biển nhìn chỉ còn là một giải xanh lục chạy vòng theo chân trời. Ao đào năm ngoái, nay hoa súng đã nở, và những con chắm thả tháng trước thỉnh thoảng nhô lên đớp muỗi, làm vẩn lên những vòng tròn lan quanh ra từ những chỗ nước sủi tăm.

Mới chừng năm nay, cuộc sống của gia đình Thiếp đã thay đổi khá nhiều. Từ ngày thầy mình là Nguyễn
Nghiễm được phong Tuyên phủ sứ Nghệ An, Thiếp cố tránh mặt, chỉ lên Tiên Ðiền hầu vào dịp Tết. Tết vừa rồi, Nghiễm lại nhắc chuyện bổng lộc : « Ðỉnh đương còn dành đó. Cứ một mình một ý không chịu nghe ai sao ? ». Khi Thiếp thưa : «Ấy vì đối với hành thạch, tôi vốn không có bụng mà thôi » thì thầy nổi giận lôi đình, lời lẽ đến độ tính cắt tình nghĩa sư môn : «...anh sinh ra, được học chữ thánh hiền, có công thầy công cha, sao cứ khăng khăng một hai là không có bụng với hai chữ công danh. Nhưng không công không danh cho khỏi lấm tay thì lấy gì mà giúp đời trong cái buổi nước đục này. Anh chắc còn nhớ câu Khuất Nguyên mượn ông chèo đò trên con sông Thương nói :

Thương lang chi thủy thanh hề. Khả dĩ trạc ngã anh.

Thương lang chi thủy trọc hề. Khả dĩ trạc ngã túc.

Nước đục ư , cứ dùng nó để rửa chân, rón rén sợ bẩn mà trốn tránh thì có khác gì như kẻ khiếp đảm cầu an. Anh không nghe thầy lần này là anh phụ thầy...Vậy thì từ nay chẳng có còn gì để mà cứ thầy trò như trước nữa ». Thiếp cắn răng: «...xin thầy thu xếp cho tôi được đem đạo nghĩa Trình Chu ra dậy cho đám trẻ vậy ».

Lúc ấy, đất Nghệ An có Nguyễn Diên và Lê Duy Mật làm loạn, phất cờ tôn phù vua Lê đã bị nhà chúa lấn áp hơn hai trăm năm. Nghiễm được cử đến xứ Nghệ chủ yếu để tróc nã loạn quân. Trước khi Nguyễn nhậm chức huấn đạo, Hoàng tôn Lê Duy Mật từ nơi đồn binh là Ngọc Lâu đến gặp, ý mong Thiếp hợp tác vì lẽ Trung Quân. Thiếp cúi đầu thở dài. Mật không nỡ ép, biết như vậy là dồn Thiếp vào cái thế phải phản thầy, quay qua hỏi chuyện thành bại. Thiếp cũng chỉ lắc đầu, không nói. Mật giọng luyến tiếc : «Trai thời loạn, sao lại xử mà không xuất ? ». Thiếp lại lắc đầu, chỉ tay vào đống sách Tính lý, Ngũ kinh, Tứ truyện, Chu lễ, Nghi lễ cận tư lục. Mật biết chí Thiếp đã quyết, cười nói đùa : « Sách nào cho kẻ chẳng được an nhàn này là sách phải đọc ? ». Thiếp nghiêm trang trả lời : « Sách Chu tử toàn tập ».

Ném một hòn đất xuống ao, Thiếp lặng lẽ nhìn những gợn nước lan rộng ra từng vòng để rồi tan biến vào cái bằng phẳng của mặt ao lặng lờ dưới nắng. Thiếp lẩm nhẩm như nói cho mình nghe « nếu lẽ là vô thường thì sự thường tại cũng phải có. Biến là biến bởi có sự bất biến. Ðạo khả đạo, phi thường đạo. Gốc ở bất biến mà biến, nhưng biến lại đồng thời bất biến vậy...».

Câu nói chưa xong, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên từ phía rặng Giăng Màn. Thúc Khải khóc thét lên. Từ nhà trong, hai đứa bé chạy ùa ra, miệng mếu máo, mặt mũi tái mét ngơ ngác nhìn hết cha đến mẹ . Tiếng nổ từng đợt ầm ầm vọng qua vách núi Thiên Nhận chạy dọc suốt nam chí bắc. Chim kêu nháo nhác hàng đàn từ nóc rừng rạc bay lên đen nghịt cả trời. Tiếng hổ gầm, tiếng voi thét, tiếng khỉ vượn chí chóe, hòa vào tiếng lạo xạo như đá vụn rào rào rơi xuống làm không gian nứt ra những vực sâu tưởng chừng vô đáy.

Trời bỗng tối sầm lại, và từ phía biển những tia chớp xanh lè lóe lên xé dọc không gian thành muôn mảnh. Rồi mưa, bắt đầu nhẹ hột, sau cứ dần dần nặng hột cho đêán lúc tưởng cứ như là trời đổ chì xuốâng thế gian. Qua vài khắc, những hạt nước mưa hóa đá. Trời biến thành mầu sữa pha lê. Những cục đá to bằng đầu ngón tay cái rơi xuống nhìn hệt như những sợi dây thừng trắng căng giữa trời với đất, đẩy nhau ra rồi lại kéo nhau vào như một sự trói buộc không cưỡng lại được. Hôm ấy là ngày hai mươi ba cuối tuần trăng thứ tám.

Phải mất đến ba ngày, Thiếp và Ðặng-thị mới lợp lại được mái gianh đã bị trận mưa đá làm hư hại. Sau bữa cơm trưa, Thiếp bị máy mắt liên hồi. Bứt cuống lá cây thị trồng ở góc vườn phía trái gần bờ ao, Thiếp nhìn một chập rồi bảo vợ :

- ... Quẻ Hỏa Sơn Lữ. Cấn hạ ly thượng. Trên ly là hỏa, dưới cấn là sơn. Núi thì định nhưng lửa chưa biết
đến chốn nào, nên gọi là Lữ.

Ðặng-thị bồn chồn :

- Thế thì lành hay dữ ?

Thiếp ngẫm nghĩ :

- Chưa thể biết được ! Nhưng nội nhật nay mai là có khách đến viếng. Mình làm sao có được rượu, được thịt thì hay !

Nói rồi, Nguyễn vào nhà đốt hương mở sách Chu dịch cẩn trọng đặt lên thư án.

Khoảng đầu giờ Thân, lúc mặt trời xế về Tây, tiếng xe thồ rầm rập dưới núi. Một lúc sau, Hà công tay chống nạng, tay cầm cương con ngựa ngang lưng có vắt một bọc vải điều, lên trại Bùi Phong. Theo sau là Nguyễn-thị ôm đứa con nhỏ, hai đứa con trai lớn và một tráng đinh cắp đao. Thiếp mở rộng cửa, vái một vái, rồi nói :

- Ða tạ Hà công quá bộ. Tôi đoán trước, đã sắp sẵn rượu thịt đây...

Hà ngạc nhiên, trợn mắt nhìn hai mâm đồng đầy những đĩa thịt gà, thịt lợn đã dọn ra để giữa chiếc chiếu điều trải trên phản gỗ. Không vái lại, Hà sẵng giọng :

- Chắc thầy cũng biết tôi vì sao đến đây rồi !

Trước lối xưng hô thay đổi của Hà, Thiếp chỉ cười :

- Bảo rằng biết, cũng đúng. Bảo rằng không, cũng chẳng sai. Hôm nay, tôi chỉ nói thêm một điều cho trọn vẹn câu trả lời ngài đã hỏi dăm bẩy năm về trước.

Hà công vội vã :

- Ðiều gì ?

Thiếp không trả lời, nghiêng mình chào Nguyễn-thị rồi đưa tay mời vào nhà, giữ thần thái ung dung tự tại. Hà ngồi lên chiếu, chưa kịp nói gì, Thiếp đã vừa dâng ly rượu vừa điềm đạm nói :

- Chủ mời, khách chớ từ. Xin ngài cạn chén.

Câu nói cố ý nhắc Hà tư thế của Thiếp, làm Hà chau mày nhưng vẫn đưa tay ra đỡ lấy chén rượu rồi uống ừng ực. Thiếp rót thêm chén nữa, rồi lại thêm một chén, và ngầm hiểu rằng dẫu chẳng thuần phục được người đã giết con hổ cái hóa tinh ở núi Giăng Màn năm nọ, cái họa manh động của một tay võ dõng chắc có lẽ đã giảm được ít phần đe dọa.

Uống đến chén rượu thứ năm, nước mắt Hà công đục ngầu ứa ra, chảy dài xuống hai má như nước vỡ đê. Ngay sau ngày cưới Mây, đinh làng Mê Hạ xô lên cướp được xác Ðèo Kha, rồi bị đinh Mê Thượng đánh bật lùi ra khỏi đập Cheo Reo. Ðể giữ bản, việc tầm nã Mây phải hoãn lại. Lần này, Mê Hạ đã liên kết được với Mường Rây bên cạnh nên số đinh trực chiến đông gấp ba, khí giới sẵn, gạo lương đầy đủ. Ít lâu sau, chúng kháo rằng đã bắt được mật kíp của Mê Thượng. Tin đưa ra, tráng đinh trên Mê Thượng hoảng lên, cả bản đòi Hà công tra mật kíp tìm cách chống giặc. Hà lúng túng chưa biết làm thế nào thì đêm hôm ấy mơ thấy
Trần Trung mặt mũi máu me đến vái lạy :

- Hà công đập vỡ đầu nó, trả cái oán nó đập vỡ đầu tôi. Nay đến lượt tôi báo đền. Ngày mai ra quân cứ đánh bằng hỏa hổ, dầu thì đổ thêm lưu hoàng vào!

Sáng ra, nửa tin nửa ngờ, Hà công nói với bản đinh là mật kíp truyền cho đổ lưu hoàng vào dầu hỏa hổ, và chiều ra quân đánh xong rồi rút trong đúng hai canh. Quả nhiên, hỏa hổ trở thành vô cùng dũng mãnh, bất ngờ làm đinh làng Mê Hạ và quân Mường Rây hoảng sợ, tháo chạy lung tung. Nhưng vì hẹn chỉ đánh hai canh, đinh Mê Thượng lại phải rút về Cheo Reo, không đủ thì giờ thọc sâu vào bản dinh của địch. Hà công tức tối trong bụng nhưng ngậm tăm âm thầm trách mình và nguyền rủa thếp giấy trắng truyền đời. Ðịch lại hợp quân tiếp tục tấn công, xua voi tiến tới và dùng những chiếc mộc quấn lá dầm nước bùn để chống hỏa hổ. Hà công lùi, quyết định táo bạo là tản binh ra để trống Cheo Reo, rồi vòng mặt sau theo hai đường phản công vào lưng địch. Không thấy phản ứng, đinh Mê Hạ vào Cheo Reo, đặt bộc lôi, rồi cho nổ.

Ðập vỡ đúng lúc trời tối sầm lại. Nghe tiếng nổ, Hà công hiểu ra, ngửa mặt lên trời gào to rồi khạc ra một búng máu bầm. Vừa khi đó, cơn mưa đá đổ xuống. Hà ngẫm nghĩ một lúc rồi vẫn ra lệnh tập kích vào phía sau địch, đồng thời đích thân dẫn năm mươi tráng đinh gốc gác họ Hà theo dòng nước vừa tìm lại được lòng sông Mê đang ứa lên ào ào chảy xuôi về Mê Hạ. Hệt như những kẻ tử tù vừa phá ngục, nước quay cuồng nhẩy múa, thênh thang vỗ vào bờ đá làm bắn tung bọt trắng xóa hai bên bờ. Ðến một ngọn đồi trọc, Hà lấy thước đo ra, vừa đo vừa tính toán, rồi cau mày chỉ vào một vuông đất nằm cạnh cây đề cổ thụ, nói gọn :

- Ðào lên, đây là mả tổ chúng mày !

Ðêm hôm đó, mang đống hài cốt mới đào trở về đến bản, Hà họp Bản hội, tự tát vào mặt mình đến sưng húp lên như tai voi, rồi xuống chiếu mời bản lập Tộc thứ lên. Ngay sáng hôm sau, Hà mang gia đình và con cháu chính ngành mình xuống núi Giăng Màn, đi về phía Lạp Ðính. Ðược hơn mười dặm đường, cả đoàn đang đi bỗng nhiên khựng lại vì tiếng sáo đinh-bia ở đâu văng vẳng bay tới. Hà nghiến răng :

- Hỡi Ðèo Kha, Cheo Reo đã vỡ là mày toại chí rồi ... Ra đây đi ! Ta cho mày chết thêm lần nữa !

Tiếng sáo ngưng lại. Rừng sâu lại chỉ còn tiếng gió thổi qua những tàu lá rạc đâm nghiêng như mũi dáo, tiếng ve sầu hờn giận gió nồm bỏng lửa. Một tiếng cười lanh lảnh làm kẻ gan dạ nhất cũng chột dạ. Nhìn lên, ngang chạc ba một cành cây, Mây ngồi vắt vẻo, cười ngặt nghẽo rồi hát :

Gió giận cành đào

gió bẻ cành mai

Gió ơi gió

gió chẳng vì ai

Chỉ vì tiếng đinh-bia mà cứ một hai đọa đầy

Hà công tợp thêm một ngụm rượu rồi tiếp :

- Thế là hai trăm năm đi toi ! Hai trăm năm giữ đập Cheo Reo, chặn nước để đất bờ sông Mê khô cằn đi, khô đến độ lửa cuối cùng phải bốc lên. Ðủ lửa thì Rồng mọc cánh bay cao, họ Hồ phục nghiệp để rửa cái nhục phải đổi họ, đổi tên ...

Hà quay phắt lại nhìn hai đứa trai bảo :

- Chúng mày họ Hồ, cách đây ba trăm năm mươi năm ông tổ chúng mày đã từng dựng nghiệp đế, nhưng than ôi ! than ôi ...

Rồi Hà nức nở gào lên :

- ... chỉ được đúng bảy năm.

Hà im bặt một lúc, bỗng cười khềnh khệch, quát :

- Bảy năm, ừ thế mà đã đánh đến Ðồ Bàn, mở rộng giang sơn này ra tận hai vùng Nam-Ngãi. Ông tổ chúng mày gầy dựng lại cái thời mạt vận của họ Trần, nào là làm tiền giấy, nào lại sửa lại phép đo đạc, nào là phát ruộng cho người cầy. Ðấy thế mà đám hủ nho nó gập đầu xuống đất, chỉ thấy kỷ cương ở dăm câu nói suông kiểu quân, sư, phụ. Bọn giun dế chúng nó đứa thì tránh, đứa thì trốn, đứa thì xúi bẩy dân ngu đến chỗ thấy quân Minh vào xâm lăng mà chỉ trơ mắt ra nhìn.

Hà quay sang Thiếp gằn giọng hỏi :

- Nếu thầy sống cách đây ba trăm năm mươi năm, thầy sẽ xử sự thế nào ?

Với chiếc xe điếu, Thiếp châm thuốc rít, nước trong điếu reo lên như cười. Nhắp ngụm nước chè, Thiếp suy nghĩ một chặp rồi thủng thẳng :

- Danh phải chính, ngôn tất thuận. Trị dân không dùng thuật. Lập quốc phải lập từ lòng người. Xưa, Hồ tiên đế vừa thoán ngôi là xuống ngay, lập Hồ Hán Thương lên. Ðấy là vì biết danh mình chưa chính. Vì danh chưa chính nên mới xua quân vào đánh Chiêm, lập công mở mang giang sơn, rắp tâm vì cái công đó mà định danh cho họ Hồ ở đời sau. Nhưng có chiến tranh thì có kẻ cửa nhà tan nát, có người trận mạc thương vong. Như vậy, làm sao mà lấy được lòng người buổi đó ? Lòng người tan tác, ngắm sau chỉ thấy đánh Chiêm là gây ra xương rơi máu đổ , nhìn trước thì quân Minh ùa vào, cũng sẽ lại máu đổ xương rơi. Ðổ vỡ, trước sau toàn là đổ vỡ ! Ðổ vỡ đó cứu bằng gì ? Bằng lòng người. Muốn có lòng người, lại chưa đặng chính danh thì làm sao mà có được.

Hà trề môi ra, khạc đờm xuống đất, trương mắt nhìn Thiếp trừng trừng, rồi gầm lên:

- Kẻ thất phu này bây giờ mang hài cốt tiên di mà không biết đi về đâu đây ? Tội này với tổ tiên chỉ có cái chết mới đền bù được !

Vừa dứt lời, Hà vớ lấy cây nạng gỗ mun rồi cứ thẳng tay giáng xuống đất cho đến độ bàn tay cầm nạng toạc máu ra. Một lúc, Hà nguôi đi, ngồi thất thần hổn hển thở. Nguyễn-thị lúc đó quì xuống chân Thiếp thưa :

- Ân công, dẫu tôi là đàn bà, lời ngài dạy tôi cũng hiểu được năm bẩy phần. Tôi người họ Nguyễn-Hữu ở Hải Dương, Cầu là đường huynh, phiêu dạt đến đây rồi kết nghĩa phu thê với Hà công. Nay lại thêm một phen phiêu dạt, xin ân công vì ba đứa trẻ long đong mà chỉ cho đường đi lối bước.

Ðặng-thị bỗng chao người đi chực ngã, tay nắm vào vai Nguyễn-thị, mắt hoa lên, sự vật bỗng nhiên như hư như thật. Một sức mạnh vô hình nâng Ðặng-thị dậy, khiến cho quay về phía Thiếp. Ðặng-thị bất ngờ bật miệng :

- Xin thầy nó nghĩ cho, họ Nguyễn-Hữu là dòng hào kiệt, dẫu gì cũng chỉ vì nghĩa cả, đứng lên tôn phù nhà vua, lại lấy của phi nghĩa chia cho dân nghèo hai vùng Ninh, Hải. Vả lại, chuyện sông Mê không phải là mình không can dự.

Nói xong câu cuối, Ðặng thị chột dạ khôngï hiểu tại sao mình hớ hênh đến vậy. Vô lý hơn nữa, trước cái nhìn dọ hỏi của Hà công, chẳng hiểu ma đưa lối quỉ dẫn đường thế nào, Ðặng-thị thất thần đi như đi trong một cơn mộng du vào lấy quyển sách gáy da hai tay đưa lại cho Nguyễn-thị. Hà công chồm lên giằng lấy mật kíp, miệng gào :

- À, thì ra thế ... Nó có đến Bùi Phong này.

Hà xúc động, mặt tái mét, miệng khò khè thở tựa bị bóp tắc họng, mắt nhắm nghiền, đầu ngật ra sau như chỉ chực ngất đi. Quyển sách gáy da văng bắn xuống đất, nằm trơ trẽn như một bản án. Thằng bé lớn gọi :

- Cha, cha ơi ...

Thằng nhỏ hơn quắc mắt trừng lên nhìn Thiếp. Còn thằng Lữ, vừa thức giấc, cất tiếng khóc oe óe.
Cúi mặt, thở dài rồi đứng dậy bước ra ngoài, Thiếp nhìn về phương Nam. Khi quay vào, Thiếp đi thẳng đến ngồi trước thư án, mở sách, chậm rãi :

- Ngày hôm trước, tôi ngắt lá, lấy được quẻ Hỏa Sơn Lữ. Sau quẻ Phong, là Lữ. Phong là thịnh lớn, mà lớn đã cùng cực ắt đến nỗi mất chốn ở mà phải đi. Lữ, nghĩa là đã đến lúc đi làm khách. Cảnh đời có thường có biến. Việc người có cùng có thông. Ðến thánh hiền, như đức Khổng tuyệt lương ở Trần Thái, cũng có lúc đã kỵ Lữ. Nhưng đại nghĩa ở giữa tâm, không biến mà chỉ thường. Soán viết, Lữ, tiểu hanh, nhu đắc trung hồ ngoại, nhi thuận, hồ cương, chi nhi lệ hồ minh, thị dĩ tiểu hanh, Lữ trinh, cát dã. Ở đất khách, thế lực không ở mình, quá ty thời mắc lấy nhục, làm cao thời mắc lấy họa, cần nhất là giữ một chữ Minh. Tượng viết, Sơn thượng hữu hỏa, Lữ quân tử, dĩ minh thân, dụng hình, nhi bất lưu ngục. Núi có lửa soi sáng, quân tử xem tượng ấy bắt chước làm việc hình luật, soi xét bằng minh đoán, phán quyết cẩn thận. Tượng viết, đắc đồng bộc trinh, chung vô ưu dã. Tấn văn công ở tả huyện, mất ngôi bỏ nước chạy ra ngoài lưu lạc, chỉ có năm người theo hầu, vừa trung kiên, vừa tài giỏi, sau lại trở về Tấn làm bá chủ chư hầu. Ở vào quẻ Lữ, níu chặt hai chữ Trung, Nhu làm bùa hộ thân. Cùng thông đắp đổi, họa phúc cập kè, không ai cứ Lữ mãi, đừng quên hai chữ Trinh, Cát. Muốn cát phải trinh. Muốn vượng thì phải lấy lòng trung thực làm gốc.

Thiếp ngừng một lát, tay chỉ :

- Vả lại, cháu này đây tên là Lữ, ứng vào quẻ này từ ngày cháu mới đẻ.

Thiếp quay sang nhìn đứa bé năm, sáu tuổi. Nó vẫn trừng trừng nhìn lại, lửa trong mắt rừng rực tóe ra làm

Thiếp quay mặt đi rồi hỏi :

- Cháu này khí tượng khác người, tên là gì ...

Nói chưa dứt lời, Thiếp xây xẩm mặt mày, ngã chúi người xuống đất. Câu Hà công vừa than « ...kẻ thất phu này bây giờ mang hài cốt tiên di mà không biết đi về đâu đây ? » bỗng vang lên trong đầu như đến từ một cơn mê sảng. Nhắm mắt, Thiếp lại thấy cái cảnh trên mây trong cơn động kinh ngày nào : một khoảng đất trống xung quanh là đồi núi, một con voi trắng đầu rồng đuổi đàn ngựa, đám dạt về Nam, đám dạt về Bắc. Ðầu như mụ đi, Thiếp nhìn Hà công chăm chăm, máy miệng nói:

- Về phương Nam, đến nơi nào đất cao mà bằng, xung quanh là rừng núi. Chỗ ấy phải là chỗ khi về không ai dám tới quấy phá. Khi đi thì nhanh chóng xuống được thành, và ra được biển.

Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời vừa qua khỏi đầu ngọn Lạp Ðính, gia đình họ Hà sửa soạn xuống núi Bùi Phong. Hà công chỉ vào bọc vải điều vắt ngang lưng ngựa, khạc đờm nhổ xuống đất :

- Thi thể con tiện nữ đây.

Nguyễn-thị nước mắt chan hòa, mở bọc vải. Tóc Mây xổ tung ra như một dòng thác đen tuyền cắm đầu đổ xuống lòng đất tìm về nguồn cội. Miệng Mây vẫn hé mở, để lộ cái răng nanh khênh khểnh, cứ như là đang cười trêu chọc. Trên ngực Mây, về phía trái, một mũi tên còn găm vào như đóng cọc. Mũi tên ấy bắn ra từ cây cung dài hai thước Hà công mang trên mình, xé gió rít lên tiếng nghiến răng oan nghiệp của định mệnh rồi vụt đi bay thẳng vào một trái tim đầy oán hờn. Nguyễn-thị xin cho chôn cất Mây trên chỏm Bùi Phong, nhưng Hà công làu nhàu gạt đi :

- Ta đem vứt xác nó cho quạ rỉa !

Bỗng thình lình, Hà tiện tay bồng thốc Thúc Khải lên. Ðặng-thị đi từ ngạc nhiên đến hoảng sợ, hỏi thất thanh :

- Ngươi định làm gì thế này ?

Hà công bất chợt vòng chiếc nạng đánh ngang vào một thân cây chè. Cây chè dập gãy làm đôi. Hà công cắn răng :

- Chúng ta còn dây dưa nợ nần. Lạp Sơn xử sĩ đã chỉ đường phá Cheo Reo, hài cốt tổ tiên nhà họ Hồ bây giờ lại phải tìm chỗ đủ lửa cho rồng bay lên. Chỗ ngài chỉ, chúng tôi không biết thực hư thế nào.

Hà im lặng một lúc, rồi nói như nói một mình :

- Họ Hồ bắt đầu từ nay đổi ra họ Nguyễn.

Chỉ đứa trai nhỏ , Hà tiếp :

- ... và tên mi nay là Nguyễn Quang Bình, chữ Quang đây là chữ đệm của Lạp Sơn Nguyễn Quang Thiếp, lấy đó mà đừng quên lời xử sĩ dạy. Còn thằng nhỏ này, ta đem theo làm con tin cho lời xử sĩ, nếu nghiệp đế mà thành thì nó sẽ được phong vương, còn không xác nó ta băm ra thành trăm mảnh.

Ðặng-thị xông lại định giằng Thúc Khải, nhưng Nguyễn-thị vội ôm chầm lấy, vừa khóc vừa nói :

- Em lạy bà chị, em sẽ trông nom cho cháu như con em đẻ, bà chị đừng cưỡng vô ích, chỉ lại gây ra thêm
tội nghiệt mà thôi !

Thiếp nắm chặt hai tay, đứng trơ ra như tượng, nhìn con trong tay Hà đang khóc dãy lên, thấy mình bất lực đến độ chẳng bằng cái sâu con kiến. Mớ kinh sách trong đầu lúc này thật không bằng một cái dậm chân của kẻ vũ phu trước mặt khiến Thiếp thấy thèm chui hẳn vào lòng đất để chết, chết hẳn đi.

Hà công trừng mắt nhìn Ðặng-thị rồi ngó vào mặt Thiếp gằn giọng :

- Nhưng nghiệp đế đó, đến khi nào thì tái tạo được ?

Thiếp thả lỏng dần hai nắm tay, gượng cười, mồm mếu máo, nghẹn lời :

- ... khi thấy rồng bay lên .

Quay lại, Thiếp để tay lên vai vợ, đứt giọng nói với Nguyễn-thị :

- ... bà lấy mang theo ít sách để dạy các cháu và Thúc Khải. Bà nhớ cho là Trung, Nhu,Trinh, Cát. Sách
đây có Tứ Thư , Tiểu Học, Ðại Học, Trung Dung...

Nguyễn-thị phục xuống lạy tạ. Phất nhẹ tay áo, không nhìn Hà công, Thiếp cúi đầu vào nhà.

Gia đình Hà công xuống núi. Dưới chân Bùi Phong, đám tráng đinh đã sẵn sàng quang gánh trên vai, rồi đoàn xe thồ bắt đầu rục rịch. Ðặng-thị bồng Thúc Khải xin đi theo một thôi đường. Ðến trưa, khi nắng vừa đậu ngọn cây thì bỗng chốc mây đen từ phương đông mù mịt kéo về. Trời nồm đến độ rờ lên lưng lên cổ tay nhớp nháp mồ hôi như nhúng tay vào dầu vào mỡ. Dừng lại ven con suối dưới chân núi Bạch Tượng, cả bọn mang cơm nắm ra ăn. Ðặng-thị ôm Thúc Khải trong tay, biết rằng giờ chia tay sắp đến. Nhìn con đang bắt đầu thiêm thiếp đi vì nóng và ẩm, Ðặng-thị ứa nước mắt linh cảm thấy rõ ràng lần ấp ủ Thúc Khải này là lần cuối cùng. Hà công ra lệnh :

- Cái gì nặng, vất hết đi.

Nói xong, Hà giằng mấy quyển sách trong bọc vải của vợ cười khinh bỉ thẳng tay ném vào góc rừng. Những trang sách rách rời ra tung bay thành một đàn bướm trắng sạc xào trong gió rồi rụng xuống nằm phục trên đám cỏ gai khô héo.

Cúi bồng xác Mây ra đứng trên một mỏm đá cheo veo, Hà công hai tay quăng xác Mây xuống suối, miệng cười ằng ặc như có người bóp vào cổ họng. Một tiếng đá ở lòng suối ngân lên rền rỉ tưởng như không bao giờ dứt được. Tiếng đá từ một cõi âm u không thủy không chung cứ văng vẳng lời hờn oán cho đến khi mưa đổ ào xuống.

Lát sau, đám con cháu tộc Hà, xưa là họ Hồ và bây giờ mang họ Nguyễn, lên đường. Thúc Khải, nằm gọn lỏn trong một cái thồ vắt vẻo phía sau một cỗ xe, kêu gào ngặt nghẽo. Ðặng-thị quì bên suối, rũ người ra khóc. Dưới suối, nơi xác Mây quăng xuống, chỉ thấy mảnh vải điều bọc thây đang bị hút xuống một cái xoáy nước sủi lên bọt trắng hệt như kẻ sùi bọt mép vì căm giận. Mưa vẫn xối xả trút nước lên núi rừng đã chuyển mình trở thành âm u dọa nạt những bóng người đang gò mình bước lên dốc cao rồi khuất nẻo. Ðặng-thị đứng dậy, vuốt nước trên mặt rồi lủi thủi một mình đi ngược về phía Bùi Phong.

Cho đến tận bây giờ, tức là quá hai mươi năm sau, mỗi khi cầm quyển sách gáy da trong còn trắng chữ mà Hà công vứt lại, Thiếp vẫn tủi thân khi hồi tưởng lại cái cảnh Hà công giằng phắt bắt lấy Thúc Khải, ngậm ngùi nghĩ về con sông Mê, cái đập Cheo Reo. Thiếp chua xót cho máu xương của đám tráng đinh, cả kẻ chặn lẫn kẻ kíu nước, từ hai trăm năm nay đổ ra chỉ vì nấm mộ họ Hồ cần đất cằn để đủ lửa cho thỏa giấc mộng rồng bay. Và nhất là Thiếp vẫn không thể nào quên được đôi mắt đỏ mọng lên như trái dâu rừng sắp rụng của Ðặng-thị khi bước qua ngưỡng cửa, cặp mắt nửa như chịu đựng, nửa như trách cứ cái nghiệp dĩ chẳng biết đã vướng vít tự kiếp nào.

Còn tiếng đá ven suối dưới chân núi Bạch Tượng, cứ mỗi tuần trăng lại một lần rền rĩ vẳng lên. Dân xã Nam Hoa cách con suối nửa ngày đường kể lại rằng chỉ đến năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi tư, tức là khoảng hai mươi năm sau, tiếng đá ấy mới dứt hẳn.

Chương 2
Chim trong lồng

Chiếc sào cắm xuống lòng sông dướn cong lên, đẩy về phía sau những dợn sóng loang loáng dưới ánh trăng lóng lánh. Tiếng mái chèo đều đặn khỏa vào nước, tiếng nước bập bềnh đánh nhịp vào mạn thuyền. Dọc bờ, mái tranh lổn nhổn thấp cao, ẩn hiện trong những vòm cây u uẩn. Thuyền cứ thế, trôi đi. Ngọn đèn chai đầu mũi chao đảo trong gió đêm, lắm lúc tưởng như là sắp tắt. Thỉnh thoảng, những đàn đom đóm không biết từ đâu bay ra, văng tung lên trời những chớp sáng lân tinh nhẩy múa trong bóng đêm. Ðâu đây, tiếng vạc vẳng lại, vô hồn, lạc lõng. Thuyền cứ thế, vẫn trôi đi.

Sông dần dần hẹp lại. Lái thuyền quen việc, chẳng bảo nhau, phối hợp những động tác đã thành máy móc. Cập vào bờ, người đứng đầu thuyền xếp dọc con sào, nhẩy xuống nước, tay nắm lấy sợi chão to bằng cổ tay kéo vào, miệâng hò lên « Ðến rồi...». Tiếng người léo xéo nổi lên. Tiếng rục rịch khuân vác xuống thuyền. Ðộ nửa khắc sau, một đoàn khoảng gần hai chục người từ chân đê xoài người đi lên. Họ lặng lẽ theo sau một chiếc võng lắc lư trên đòn khiêng chĩu nặng trên vai hai người phu lực lưỡng. Khi đến cửa ô Quan Chưởng, trống điểm canh ba vừa điểm. Tiếng chó tru lên sủa, rồi tiếng quát hỏi giật giọng của lính tuần canh còn khàn đặc cơn ngái ngủ. Dăm ba ngọn đuốc từ chân thành thắp cháy hắt bóng người lên tường thành cao nghễu nghện, nghiêng đổ, thấp thoáng như ma chơi. Ðoàn người dừng lại. Dưới ánh đuốc chập chờn, một người trong bọn râu quai nón, mắt sắc, dáng chắc nịch, bước ra thì thào với đám lính vừa bổ tới vây quanh. Cổng ô mở ra, tiếng bản lề kèn kẹt rít lên.

Mồm lầu bầu chửi tục, một người lính leo lên lưng ngựa, tay vung ra sau quất roi. Phu khênh võng lẳng lặng hạ đòn xuống. Ông cụ nằm võng chống tay từ từ ngồi dậy, búi tóc đã bạc sổ ra lưa thưa. Quơ tay lên búi lại tóc, ông vặn mình, mắt hé nhìn ra màn đêm dầy đặc. Tiếng điếu cầy rít sòng sọc, rồi tiếng ho khan hục hặc cắt quãng. Mùi thuốc lào hăng hắc hòa vào mùi dầu đốt đuốc khét lèn lẹt xông ùa vào mũi. Nhìn lên, trời cuối tháng ba li ti những giải sao pha lê lấp lánh. Gió vẫn còn lạnh ngắt, từng cơn bốc hương đất ngai ngái mùi rơm rạ.

Ðợi độ một tuần nhang thì tiếng chân ngựa vẳng lại lúc một gần. Ông cụ nằm võng vẫy tay gọi người nhà dặn dò. Võ Toàn Nhật, người có râu quai nón, tiến ra đón thanh niên cưỡi con ngựa chiến đang nhanh nhẹn nhẩy xuống yên. Xưng tên là Hoàng Ðăng Khoa, con của Huy Quận công Hoàng Tế Lý hiện giữ chức Chánh dường coi toàn bộ chính sự trong phủ Chúa, người đó khẽ nghiêng mình. Vái chào lại, Nhật nói :

- Thầy tôi cao tuổi, lại đi suốt mười ngày đường nên quá mệt không còn sức tiếp lễ cho phải phép, xin được thứ lỗi cho đêm nay .

Hai người tách ra đi về phía chiếc võng. Dưới ánh đuốc, một người tầm vóc, lông mày xếch, quai hàm bạnh ra và môi trông như hơi mím lại, bước ra chào. Nhật giới thiệu Nguyễn trọng Thức, người đồng môn. Nghiêng mình chào lại người đó xong, Ðăng Khoa lẳng lặng đến vái trước võng rồi phất tay ra lệnh lên đường.

Ðoàn người rời cửa ô, lầm lũi đi theo ánh đuốc lập lòe chao đảo trong gió đêm. Men qua giẫy nhà hàng phố vẫn còn im phăng phắc, người nọ nối chân người kia rẽ về phía trái. Ði thêm quãng nửa khắc, cả đoàn ngừng lại. Tiếng gọi cổng vang lên, rồi tiếng rút then, tiếng bản lề kẽo kẹt, tiếng người suỵt đàn chó đang oăng oẳng sủa. Qua một chiếc sân gạch dài, Ðăng Khoa tạt về mé phải, tay chỉ dẫy nhà ước chừng đến hơn chục gian, nhìn Thức và Nhật, khẽ nói:

- Ðêm đã khuya nên xin về tệ xá . Ðây là nơi Phu tử và các vị tạm trú, mai này cha tôi sẽ cho lệnh xếp đặt lại sau. Ðợi qua ngày, tôi sẽ lên chào Phu tử.

Sắp đặt xong chỗ ăn chỗ nằm cho Phu tử, Trọng Thức bước ra sân ngước mắt nhìn trời. Vào cuối tháng ba, đến canh tư mà trời còn đen kịt. Tiếâng vạc ăn đêm thỉnh thoảng lại vọng về não nùng, trống vắng. Lững thững bước quanh ven chiếc ao thả sen, Thức lắng tai nghe những âm thanh mơ hồ đến huyền hoặc. Dăm con cá ngóc lên đớp muỗi làm đám bọt nước lúc nổi lúc chìm lục bục vỡ. Những tàn sen se mình níu giữ một chút bình yên qua đêm sót lại. Vài ráng mây rám hồng một lúc sau loáng thoáng hiện dần nơi chân trời, rồi lao xao tiếng gà gáy sáng vẳng lên, bắt đầu còn thưa, sau cứ liên tu như giục giã đuổi bắt lẫn nhau.

Ðứng dậy vươn vai hít không khí cho đầy ngực, Thức bước vào nhà. Toàn Nhật đang lúi húi đun nước cho tuần trà buổi sáng. Phu tử lưng dựa vào vách, tay vê điếu thuốc lào, mắt trũng xuống sau nhiều đêm ít ngủ.

Sáu năm sau khi nhậm chức Huấn Ðạo, Nguyễn Thiếp được thăng lên làm Tri Huyện Thanh Chương. Tiếng thế, nhưng Thiếp lui về ở trại Bùi Phong, việc quan trao hết cho bọn nha lại. Khi thầy mình là Nghiễm, Tả Thừa Tướng dưới đời chúa Trịnh Doanh, mất vào buổi lập đông năm 1768, Thiếp từ quan, bỏ hết thời giờ vào chuyện học thuật. Quan Hiệp Trấn xứ Nghệ là Bùi Huy Bích gửi thơ lên thăm, lời lẽ tán tụng :

« Ngẩng trông am núi cách vời.

Núi cao rừng thẳm tột trời mây xanh.

Muốn lên thăm hỏi sự tình.

Lại e một nỗi ông khinh người phàm »

Trong thơ trả lời, Thiếp nhân đó xin khoan giản thuế tư điền cho dân Thanh-Nghệ. Từ đó, người đời gọi Thiếp là Phu tử, tiếng đạo hạnh nổi lên khắp nước. Giữa tháng ba năm Cảnh Hưng thứ 41, Phu tử nhận được tờ truyền của chúa Trịnh Sâm mời lên Kinh. Phu tử ngần ngừ, nhưng thế chẳng đặng, phải cùng con trưởng và hai người học trò thân thiết nhất lên đường.

Ánh nắng sớm ửng vàng trên chòm râu Phu tử bạc trắng lung linh qua làn khói thuốc. Phu tử ngả người ra sau, chiêu một ngụm nước, mắt nửa nhắm nửa mở. Một lát sau, nhìn học trò, Phu tử chậm rãi nói :

- Chốn kinh kỳ miệng người như miệng rắn, tai người như tai dơi. Thầy chưa muốn tiếp ai trước khi gập Hy Doãn Ngô thì Nhậm.

Phu tử sai Trọng Thức đi tìm Nhậm. Khăn áo chỉnh tề xong, Trọng Thức chào thầy rồi đi ra cổng. Chỉ lát sau, Thức lại quay vào. Ngạc nhiên, Toàn Nhật hỏi. Thức cười khẩy, tay khoanh một vòng tròn, rồi lẳng lặng bước vào phòng Phu tử. Ở ngoài, Toàn Nhật chỉ nghe thấy một tiếng hừ bực bội rồi một tiếng đập bàn.

Thuở Trọng Thức mới mười ba tuổi thì Nguyễn Danh Dương qua đời khi vừa sấp sỉ bốn mươi. Dương chẳng những là đường đệ mà còn là bạn thân của La Sơn Nguyễn Thiếp, sớm biết mệnh mình nên đã gửi gắm con với phu tử. Thức về ở trại Bùi Phong hai năm trước khi Phu tử mang Toàn Nhật về nuôi. Cùng cảnh côi cút nên Thức thương Nhật như em ruột mình.

Hai anh em khác hẳn nhau. Nhật to cao dềnh dàng, vai ngang, ngực nở, chân đi thoăn thoắt. Trái lại, Thức vừa tầm, dáng thư sinh, lúc nào cũng chậm rãi như dè sẻn sức lực. Mặt gân guốc, mũi hếch, hàm râu quai nón của Nhật dẫu che được đôi môi trề ra như chế diễu nhưng không làm giảm chút nào nét nghịch ngợm trong khóe mắt. Phần Thức, Thức lúc nào cũng trang nghiêm và chừng mực. Gương mặt xương xương khiến đôi mắt Thức lõm sâu dưới cặp lông mày xếch lúc nào cũng xa xôi, và có gì như lo lắng, như dọ hỏi. Vì thế, ai mới gặp cũng cảm thấy có một khoảng cách không vượt qua được. Nhưng thật ra, khi gần gũi, nét cương nghị qua cặp môi môi mím trên chiếc cằm bạnh chẳng qua là cái vỏ che đậy một tâm hồn chồng chất bức xúc.

Hồn nhiên, nên Toàn Nhật dễ nông nổi, phản ứng rất nhanh và mạnh. So với Nhật, Thức có vẻ trầm tĩnh. Nhưng sự trầm tĩnh ấy không khác gi cơn sôi riu riu của loại nham thạch đang đợi lúc bùng lên lửa đam mê của một hỏa sơn ẩn ngầm trong đất đá. Cơn sôi ấy càng lâu, sự bướng bỉnh bốc thành thứ ánh sáng đùng đục đậu vào khóe mắt khiến nét mặt Thức mang cái vẻ ngang ngạch thách thức.

Học được với Phu tử mười năm, Thức xin phép được xuống Yên Vĩnh cách Bùi Phong hai mươi dặm, về sửa sang lại ngôi nhà của tổ phụ, ngày ngày đi cầy theo gương Hứa Hành đời Chiến Quốc. Dịch sách Tiểu học, rồi Tứ Thư, Ngũ Kinh sang tiếng Nôm, Thức dậy học mỗi tối cho đám trẻ, nhất định không nhận quà cáp thù lao, lấy cớ rằng cái học với Thức không dùng để đi thi ra làm quan được. Thức thường bảo học cốt là hiểu lý hiểu nghĩa, viết là để giao dịch, để ghi lại lời hay ý đẹp, nên Nôm hay Hán đều được. Chữ Nôm dựa trên thanh âm gần gũi cách nói, tất dễ hơn nên ai cũng có thể học. Thức lạc quan, cho rằng như thế sẽ đông người biết chữ, rồi thêm lời thêm ý, biết đâu chữ Nôm một ngày kia sẽ chẳng thay hẳn chữ Hán. Ít lâu sau, rất nhiều người đến học với Thức, già có trẻ có, tiếng nổi lên như cồn khiến những ông đồ cả trấn Nghệ xì xào dè bỉu « nôm na là cha mách qué ».

Thức bảo học trò tập viết bằng cách chép lại những câu ca dao dưới dạng lục bát. Thức lại đưa cho Nguyễn Du xem năm ngoái, dịp Du về Nghệ, lên ở lì trên trại Bùi Phong cả tháng. Du vốn là con Nguyễn Nghiễm và hiện đang ở Thăng Long với anh là Nguyễn Khản. Thuở ấy, Du mới mười bốn mà đã nổi tiếng hay thơ, cứ trầm trồ khen thơ lục bát có phần uyển chuyển phóng túng hơn loại Ðường luật Cổ thi thường được ngâm vịnh trong giới người có học.

Lúc đó, Khản như cánh tay của Chúa Trịnh Sâm, giữ chức Tả thị lang kiêm Bồi tụng. Trước lời ra tiếng vào của đám nho sĩ xứ Nghệ, Du sui Thức bầy tỏ chí mình. Thức làm ba bài thơ tựa là Tam đoạn tự khải. Tháng sau, có giấy bắt Thức lên hầu quan. Hoàng Tế Lý ẩn mặt, sai Nguyễn Hữu Chỉnh phân xử lời tố cáo Thức có ý định làm loạn. Chỉnh vời Thức vào, cố ý bắt Thức đợi nửa ngày, giọng khinh bạc, thủng thỉnh:

- Việc quan như là trông con mọn, cái nọ xọ cái kia, phiền ông chờ lâu !

Thức trầm tĩnh :

- Quan như phụ mẫu, chúng tôi nào dám kêu ca, miễn cứ công minh mà sử thì dân hèn chúng tôi đội ơn.

Chỉnh vờ nổi nóng, tay vỗ bàn, miệng gằn giọng:

- Mới mở mồm mà đã chê rằng quan trên không công minh à !

-......

- Bài thứ ba trong Tam đoạn tự khải, anh viết : « Ngoảnh trông phương Bắc thôi khiếp sợ. Ngước mắt về Nam gió đến tay » là ý gì ? Phương Bắc có Vua, có Chúa. Phía Nam thì giặc Tây Sơn vừa ngược ngạo tự mình xưng đế xưng vương, thế có phải là...

Thức ngắt lời Chỉnh, chĩnh chạc :

- Trình Quan lớn, ngài tiếng tăm văn võ, thừa hiểu là bình thơ luận nghĩa mà chỉ trích ra hai câu trong một bài thì muốn gán thế nào cũng được, kẻ tiện dân này chỉ mong ngài không nghe tiếng dèm pha. Ba bài tự khải nhằm nói tại sao kẻ hèn này lại thiên về chữ Nôm chứ không lệch sang chữ Hán. Vậy thì Bắc ý chỉ
Trung Quốc, còn Nam thì cứ kể là từ mũi Nam Quan trở ra.

- Người quân tử không thiên lệch...

Thức biết mình đã chiếm thượng phong, cố dấu ngạo ngễ, cười rồi nhẹ nhàng:

- Không quân tử, thưa Quan lớn, là phạm tội ư ? Thế còn bài Quách lệnh công phú để ca ngợi Quách tử
Nghi đời Ðường bên Trung Quốc đã nổi tiếng khắp Bắc hà, rồi đến bài thơ khẩu khí vịnh Cái Trống đều do chính Quan lớn làm cũng là bằng chữ Nôm, liệu có thiên lệch gì không ?

Thức ngưng nói, nhìn Chỉnh rồi nhẩn nha :

- Hơn nữa, chẳng có cái tội trạng nào là cái tội không quân tử. Có tội ấy chắc bàn dân thiên hạ thấp cổ bé miệng không có chỗ mà sống được nữa !

Chỉnh sượng sùng, nhẹ giọng :

- Sao không đi thi rồi làm quan mà giúp đời ?

- Quân tử cốt lập chí, sau mới đến công danh. Thời này nhiễu nhương mà chỉ tính đến công danh tư riêng thì chắc cho chính mình cũng chẳng bền, nói gì đến cứu giúp được ai ! Kẻ tiện dân này chỉ mong yên thân đi cầy ruộng, rồi bõ bẽ chỉ dẫn cho dăm người cầu học vài chữ thôi.

Chỉnh lạnh lùng cắt ngang, cấm Thức không cho dậy quá mười học trò trong mỗi buổi dậy học, và bắt chỉ được quanh quẩn trong vùng hai huyện Thanh Oai, Thanh Chương. Sau chuyện đối đáp với Chỉnh trong chuyến hầu quan trên trấn, Thức càng được tiếng, bỏ một nửa ngày cầy để dậy thêm hai buổi mỗi bữa, học trò đông đến độ Thức phải từ chối dậy một số người đã lớn tuổi.

Du nói với anh, rồi Khản nhân danh là đồng môn với Nguyễn Thiếp hỏi quan Hiệp Trấn về việc Thức. Lúc ấy Tế Lý nể mặt mới ra lệnh cho cống Chỉnh bãi cái lệnh cấm cản, lại còn sai mang lên tết Thiếp mười quan tiền, sáu đoạn nhiễu, hai cân chè Thái Nguyên và nửa tạ gạo. Nguyễn Thiếp tránh không tiếp, và dặn Ðặng-thị từ chối không nhận bất cứ một thứ gì.

Khoảng cuối giờ Thìn, một chiếc xe bò lọc cọc ngừng lại trước dãy nhà phía phải giành để tiếp khách trong tư dinh Hoàng Ðăng Khoa, con trai cả của Huy quận công Hoàng Tế Lý và công chúa Ngọc Tĩnh. Hoàng công tử có tiếng là khéo léo, không chính thức nhận một chức vụ gì trong phủ Chúa, nhưng thường giúp cha trong công việc giao dịnh nên biết khá nhiều chuyện chính sự cũng như mọi đường ngang lối tắt lắt léo nơi cửa quyền ở chốn kinh kỳ. Khác với đám thượng lưu trẻ tuổi chốn đô hội thường đắm mình trong những chuyện phù phiếm, những oái oăm chốn hậu trường của quyền thế, và nhất là những dịpï ăn chơi thâu đêm suốt sáng hầu như mỗi ngày mỗi có, Ðăng Khoa ít giao thiệp với người cùng lứa, không huênh hoang, không hợm hĩnh, và thường tự nhún mình, lúc nào cũng giả tảng như không để ý đến ngoại vật.

Chiếc xe bò chất đầy đủ loại thực phẩm, từ gạo muối cho đến tương, cà, ca,ù thịt. Sau khi chất rỡ xong, người gia bộc cỡ ngoài sáu mươi kính cẩn:

- Cậu chúng con xin mời đức Phu tử và các cậu hạ cố dùng bữa cơm trưa hôm nay thì thật là bảo giá.

Trọng Thức bật cười trước lối nói chữ nào là hạ cố nào là bảo giá, trả lời :

- Cứ cho người đến dẫn lối, chúng tôi sẽ xin qua hầu công tử.

Sau khi vào trình Phu tử để khu xếp, Thức rủ Nhật đi dạo quanh tư dinh Hoàng công tử. Vòng từ mé phải họ bước vào một khu vườn nhìn ra hồ Trúc Bạch. Bên cạnh con đường trải sỏi trắng là một cái ao đào rộng độ hai sào vuông. Trên bờ ao, một cái cầu vồng bắc vắt vẻo dẫn đến căn gác vuông vắn mỗi bề độ hai mươi thước ta, tường bằng gỗ sơn xanh nhạt, mái ngói đỏ mầu gạnh cua, cửa vào có đề hai chữ Khiêm Các, ý chỉ sự khiêm nhường. Chung quanh ao trông đủ loại cây cỏ rất lạ, có loại cây toàn lá mầu đỏ cam rực rỡ, lại có loại không có lá mà chỉ toàn hoa đài trắng muốt đến độ nhìn cứ tưởng như trong suốt. Bước vào các, mùi gỗ quí thơm bay thoang thoảng. Vạch những bức màn lụa mầu ngà có viền kim tuyến và thêu những bông cẩm chướng sặc sỡ nhìn ra, một đàn hàng chục con công ven bờ ao bên kia đang giang cánh múa, mầu lông óng ánh dưới nắng vàng. Trên mặt ao, dăm ba tảng đá mầu hồng nhô lên trên những tàn sen còn đọng những hạt sương lóng lánh như kim cương.
Thức ngồi xuống tràng kỷ, nhìn quanh, miệâng bâng quơ :
- Cứ xem cảnh sắc thế này thì mồm nói khiêm nhưng bụng lại chẳng nhường ai một chút nào.
Nhật vòng qua cái sập gụ đen tuyền dầy đến ba tấc và rộng đủ để sáu người ngồi xếp bàn tròn, bước về phía giá gươm rồi táy máy rút một thanh ra khỏi vỏ. Lưỡi gươm lạnh tanh lóe sáng. Toàn Nhật vung lên một đường, nâng thanh gươm lên ướm nặng nhẹ, suỵt soạt trầm trồ.

Một lát sau thì gia nhân đến mời. Thể theo ý Phu tử, ba người qua dãy nhà phía trái nơi Khoa ở. Thức cung tay chào, rồi chỉ qua trung niên dáng gầy gò :

- Thưa Hoàng tướng công, ông đây là Nguyễn mạnh Thuyên, trưởng nam của thầy chúng tôi. Thầy tôi vẫn còn mệt không qua bồi tiếp tướng công được, để anh chúng tôi sang hầu tướng công...

Ngưng lại, Thức nhìn thẳng vào mắt Hoàng Ðăng Khoa, giọng có chút châm biếm:

- ... và nghe lời dậy bảo phải ở đâu, làm gì, gập ai, và được đi những đâu...

Khoa hơi bối rối, nhưng trấn tĩnh ngay, tươi cười trả lời :

- Những việc ông anh vừa nói là đều sẽ do cha tôi sắp xếp, tôi phận con cháu nào có cái quyền gì mà dám xen vào. Nay, ta phải đợi để Phu tử thật khỏe đã, gập cha tôi là mọi việc đâu vào đó, chẳng có gì phải bất tất.

Tuy mồm chối trách nhiệm, Khoa vẫn khéo nhắc đến quyền uy của cha mình. Thức còn bực trong bụng, định tâm tiếp tục vặn hỏi lại cái chuyện bị lính canh cấm ra khỏi cổng sáng nay, nhưng Thuyên khẽ gạt tay, lên tiếng:

- Ngài dậy như vậy, chúng tôi rất đội ơn. Cha tôi nay già cả, sức khỏe có sút, chỉ cầu xong việc là xin về ngay, chẳng lòng nào dây dưa ở lại kinh kỳ này lâu la làm gì. Chẳng hay khi nào thì Chúa vời cha tôi vào cho gập ?

- Việc này tôi cũng lại không biết. Nhưng tôi sẽ bẩm với cha tôi chiều nay để Phu tử khỏi sốt ruột.

Bữa ăn vẫn có phần gượng gạo tẻ nhạt mặc dầu Ðăng Khoa cố vui vẻ chào mời. Thuyên ít nói, lời đúng mực, không thừa không thiếu. Thức lạnh lùng. Khoảng đầu giờ Mùi, lão gia bộc thích nói chữ chạy vào thì thào. Khoa đứng dậy, miệng nói:

- Cha tôi đến !

Một người đàn ông giữa khoảng ngũ tuần vén bức chướng mé phải gian nhà khánh nhanh nhẹn bước vào. Người đó cao hơn bình thường dễ đến nửa cái đầu, miệng rộng, môi mỏng, vai chữ điền, tóc điểm bạc búi ngược, lưỡng quyền gồ cao làm trồi lên cặp lông mày rậm trắng, xếch đến cuối chân mày rồi đứt đoạn bất ngờ xụp xuống. Ðợi cho mọi người vòng tay thi lễ xong, người đó mới sẽ nghiêng mình, nói:

- Chắc Phu tử còn mệt, tôi chưa được diện kiến nên xin gửi lời chào, và mong Phu tử chóng khỏe để tiện thu xếp ít công việc nhà Chúa.

Quay sang Khoa như dọ hỏi, người đó đảo một vòng mắt nhìn mọi người, tiếp:

- Phu tử là khách của Chúa, còn các vị đây là khách của cha, con phải chu đáo mọi sự.

Khoa hiểu ý, khẽ nhích lên rồi giới thiệu tên từng người. Thuyên vòng tay vái miệng nói « Kính chào quan Chánh dường ». Ðến lượt mình, Toàn Nhật cũng bắt chước làm như vậy. Hoàng Tế Lý khẽ nhếch mép rồi bước một bước đến nhìn tận mặt và hỏi gốc gác. Nghe Nhật kể tên ông ngoại họ Võ ở Thạch Hà, Lý vỗ vào vai, cười bảo « thì ra cũng con dòng cháu giống ! ». Khi Khoa giới thiệu Trọng Thức, Lý thân mật :

- A, hiền điệt là hậu duệ của Nguyễn Danh Dương, bạn đồng khoa với ta.

Ðến trước mặt Thức, Lý nắm lấy tay, vừa lắc vừa nói, giọng kẻ cả:

- Khí tượng thế kia, tuổi trẻ thế này sao lại nổi tiếng là ẩn sĩ được nhỉ? Gần ta ít lâu, biết đâu cháu lại chẳng đổi ý. Làm tài trai, phải như chim Bàng chim Phượng, cớ gì lại sè sè chịu bay như đám chim sẻ đi tìm vài hạt thóc thừa chốn quê mùa ?

Trong đầu Trọng Thức chợt lóe lên hình ảnh những con sẻ tìm bắt cào cào châu chấu phá hại mùa màng đang nháo nhác bay lên khi một đàn quạ sà xuống. Bấm bụng, Thức nghiêng mình vái, giữ một khoảng cách với sự thân mật của Tế Lý, khiêm tốn :

- Xin đa tạ quan Chánh dường, vãn sinh tài hèn đức mọn, lúc nào cũng áy náy chỉ sợ làm hổ tiếng phụ thân, không dám nhận hai chữ ẩn sĩ từ những lời đồn đãi không đáng làm bẩn tai quân tử.

Sau khi Trọng Thức nhắc lại câu mình đã hỏi Ðăng Khoa buổi sáng, Hoàng Tế Lý nghiêm trang nói :

-Khách của nhà Chúa là thượng khách, muốn đi đâu thì đi. Các vị là khách của ta cũng vậy. Trong kinh, từ đầu giờ Tuất đến cuối giờ Dần giới nghiêm. Tuy thế, nếu cần đi, phủ Chúa sẽ cấp cho Phu tử giấy phép, cứ đưa ra tất lính tráng chấp lệnh ...

Hắng giọng, Tế Lý chẳng những tảng lờ chuyện cấm ra khỏi cửa mà còn kèm chặt thêm đám khách, tiếp :

- ... cũng gửi lời ta xin Phu tử tha lỗi cho bọn lính tráng không biết khu sử buổi sáng nay. Kinh đô hiện chưa hẳn yên nên ta sẽ phái lính phủ Chúa đến bảo đảm an ninh cho Phu tử và gia nhân. Ðăng Khoa tạm nhận trách nhiệm tiếp đãi Phu tử cho đến khi ta xếp đặt để Phu tử đến ngụ tại dinh Khương Tả hầu.

Suốt một tuần lễ từ ngày đến Thăng Long, Phu tử đợi Chúa vời, nhưng không tin tức gì. Sốt ruột, Phu tử nhờ Khoa chuyển lời mình đến Hoàng Tế Lý là người ra vào Chính-phủ hàng ngày.
Mặc dầu Khoa hết sức chu đáo, Phu tử và gia nhân vẫn mong sớm được dời tư dinh của Khoa, nơi tạm cư từ ngày bước chân đến Thăng Long. Khoa luôn luôn tỏ ra thân mật để khách thoải mái, song trừ Toàn Nhật ra, ai ai cũng cảm thấy mất tự do chốn cửa quyền, lúc nào cũng có lính tráng dòm ngó và người ăn kẻ ở thưa gửi. Chỉ riêng có một mình Nhật gần gũi Ðăng Khoa hơn mọi người, phần vì hồn nhiên, phần vì thích bàn chuyện võ nghệ. Buổi tối hôm đó, Khoa vào vái thăm Phu tử rồi thưa :

- ... Cha vãn bối nhắn mời Phu tử giờ Mùi sáng ngày kia vào Nội phủ.

Sáng ngày Phu tử vào Nội phủ, một đội sáu người lính thuộc đội Hậu Dũng, quần áo sắc vàng nhạt, cổ nẹp đỏ, đến với hai người phu khiêng kiệu. Khi Phu tử vẫy tay gọi Thức và Nhật đi theo, một người xưng là thư lại cúi đầu cung kính nói là có lệnh chỉ đưa một mình Phu tử vào Thập Tự cung ở Chính -phủ.

Sau khi Phu tử lên đường, Nhật rủ Thức ra phố. Ðến cửa dinh, hai người nghe tiếng gọi giật :

- Có nhớ tôi không ? Tôi đến chào thầy và các vị đây!

Nhìn lại thì ra Bằng Vũ, một người bé nhỏ, dáng thư sinh, cũng người huyện La Sơn, xưa có học với phu tử ở Anh Ðô. Vũ xưa thi hỏng kỳ đệ tam trường, nay lo việc giấy má sổ sách, làm từ hàn cho đội Trung - Kính, đội lính bảo vệ an ninh cho Tam cung Ngũ phủ. Vũ vui vẻ xin làm người đưa đường cho Thức và Nhật.

Từ dinh Ðăng Khoa đi xuống phía Tây Nam chừng hai dậm là hồ Thủy Quân, giữa hồ có xây một cái tháp năm tầng, và tiếng truyền rằng mỗi khi có quốc biến thì con rùa đã sống bốn trăm năm trong hồ nghiến răng kèn kẹt báo cho người hàng phố. Lần sau rốt, vào tháng sáu năm Mậu Tuất cách đây hai năm, lúc Ðàng ngoài hạn hán, giá gạo cao vụt lên và người chết nằm đầy đường thì tiếng rùa nghiến răng nghe đến tận miệt Ô Trường Bản. Dân quê hai tỉnh Thái Bình, Thanh Hóa trốn đói mò lên Thăng Long có đến hàng vạn. Họ tự tiện cắm dùi trên công thổ phía Ðông Nam, suốt bờ sông từ Vị Hoàng cho đến Hà Ðông. Triều đình tìm đủ cách đuổi dân lưu cư nhưng cho đến nay vẫn không được.

Ở kinh kỳ, người đi như mắc cửi. Trên dăm trục chính nối những cửa ô, mặt đường rộng đủ cho năm chiếc xe ngựa qua lại. Từ hồ Thủy Quân đi xuống độ trăm thước là nơi người Kẻ Chợ buôn bán. Ba mươi sáu phố ăm ắp người chen vai thích cánh, mỗi phố là một mặt hàng : nào là tơ lụa, đường phèn, gương, lược, trống, kèn, gỗ.. đủ loại. Người ở kinh diêm dúa hơn người thôn quê, đàn ông mặc áo the, chân đi dép, đàn bà thì trên áo tứ thân, dưới là váy lĩnh, có kẻ đầu vấn tóc, có người che khăn mỏ quạ. Các bà ở mặt tiền những cửa hàng rộng không quá năm, sáu thước vuông, miệng ríu rít chào khách qua đường. Tiếng mặc cả, tiếng dè bỉu, và thỉnh thoảng lại có cả tiếng cãi cọ chửi bới oang oác bên tai. Ba người đi hết phố này sang phố khác, hòa mình vào cái dòng sinh lực cuồn cuộn cứ chực như tràn ứ ra trên lề đường. Quá giờ ngọ, họ kéo nhau vào một quán ăn khá rộng rãi sang trọng ở phố hàng Mành. Vũ phất tay gọi rồi bảo :

- Nhất đất này đấy, và phải nói để hai vị biết, bún chả thì tuyệt khéo.

Cuối phòng ăn, một đám gần hai mươi người ngồi choán đến năm bàn, bàn nào cũng đầy những cút rượu. Vũ đứng dậy đến cung kính chào một nam nhân ngót ngét ba mươi tuổi, mày rậm, mũi hếch, mắt như mắt cú đỏ sè, ngồi nghênh ngang giữa đám thủ hạ. Sau đó,Vũ lại rón rén về chỗ, thì thào vào tai Thức : « Ăn nhanh rồi chuồn, bác ạ ! ». Trước thái độ của Vũ, Thức và Nhật hơi ngạc nhiên, song chưa tiện hỏi. Cả ba lẳng lặng ăn, nhưng chưa hết bữa thì đám người trong góc ồn ào đứng dậy, gươm đao nghe loảng xoảng.
Một người mảnh khảnh, mặt xanh mướt, nói với chủ quán :

- Ghi sổ lại. Lần sau trả. Bây giờ có việc công phải đi gấp.

Ông chủ quán vâng dạ, mặt méo xệch, đầu cứ gật gù cúi xuống. Nam nhân mắt cú đứng dậy, miệng ngậm
cây tăm xỉa răng, tay cầm chiếc roi cá đuối, phất vút một cái vào không khí, rồi ra lệnh :

- Ði thôi !

Qua chiếc bàn có bọn Bằng Vũ, người ấy ngừng lại, hất hàm :

- Những ai đấy ?

Vũ đứng dậy, cười cười, vái rồi giới thiệu. Nam nhân lại hất hàm, nhìn lên, khinh khỉnh :

- À, khách của Huy quận công à !

Tay vút roi vào khoảng không, người ấy chẳng thèm nhìn ai, khinh khỉnh :

- Có muốn xem đốt đuốc người không ?

Nói xong, người ấy bước ra. Thấy lạ, Toàn Nhật tò mò đòi đi xem. Ba người liền ăn vội, trả tiền, rồi ra theo. Bọn người ồn ào bước đến đâu thì đám đông dân chúng dạt ra đến đó. Họ đi vòng về phía Ô Cầu Giấy, đến một khoảng đất trống áp vào rìa sông chung quanh có quây cót. Lính canh chia làm hai lớp vây vòng, ai nấy quấn khăn che mặt lại, gươm giáo sáng lòe. Từ dốc đê, không ai nhìn thấy gì sau cót, nhưng nghe văng vẳng đâu đây có tiếng nỉ non khóc lóc. Nam nhân mắt cú vọ vẫy tay, đám thủ hạ khuâân những thùng dầu đã xếp sẵn xung quanh cót đổ tưới lên và ném những cành cây khô vào. Tiếng khóc tiếng kêu lúc càng inh ỏi. Những tiếng thét tuyệt vọng rít lên, rồi một người đục cót chui ra. Tên lính đứng gần lao một ngọn thương. Người ấy tru lên, tay dơ cao, bàn tay trụi không có ngón nào, với như cào vào khoảng không. Nam nhân mắt cú khinh khỉnh châm đuốc rồi thẳng tay ném vào. Lửa bùng lên khắp ngả. Tiếng rú, tiếng kêu, tiếng khóc nhất lượt òa lên nghe đinh tai nhức óc. Toàn Nhật hiểu ra, người nóng rừng rực như chính mình bốc lửa, lồng lên, xô lại gào :

- ... Không giết họ thế được ! Ngừng lại!

Vũ hốt hoảng nắm Toàn Nhật lại nhưng không kịp. Nam nhân mắt cú miệng mím lại, mũi hếch lên, vung roi quất vào đầu Nhật. Chiếc đầu roi chưa kịp giựt về thì Nhật đưa tay bắt lấy thân roi, rồi vòng tay như cuộn lại, lấy tấn bất thình lình dận xuống. Nam nhân ngã chúi mặt xuống đất, bỏ roi, tay kia rút kiếm, gầm lên :

- A, giỏi thật ! ... bay bắt lấy nó cho ta ...

Ðám thủ hạ tay đao tay kích ùa ra vây Nhật vào giữa, hầm hè như muốn nuốt tươi ăn sống. Ðúng lúc đó, tiếng Ðăng Khoa cất lên :

- Không ai được chạm vào khách của quan Chánh dường !

Ðội lính Hậu Dũng áo vàng lúc ấy gươm đã tuốt trần, xông vào làm một vòng tròn quây quanh Toàn Nhật.
Khoa tiếp :

- ... Chạm vào khách là chạm vào chủ. Kẻ nào xúc phạm, theo luật, sẽ bị tội lăng trì !

Quay sang nam nhân mắt cú, Khoa vòng tay vái :

- Xin Ðặng tướng công thứ cho ! Khoa này chịu mọi trách nhiệm.

Mùi thịt người lúc ấy xông vào mũi khét lẹt. Tiếng kêu tiếng khóc vẫn rú lên từng chập nhưng dần dần thưa đi. Khói những cây đuốc người bốc lên đen cả bờ sông Nhị. Nước vẫn cứ xiết trong lòng sông lúc nào cũng quằn quại những dòng lũ màu đỏ như máu. Nam nhân mắt cú, tên là Ðặng Mậu Lân, em ruột của Ðặng thị Huệ, hầm hè :

- Rồi sẽ biết tay ta ! Ðể xem, để xem ...

Hôm sau, dân Thăng Long hớn hở : tiếng đồn là nhờ có Chúa chu cấp lương tiền, trại hủi ngoài Ô Cầu Giấy đã dọn đi về phía Ninh Bình. Mùi thịt phảng phất chẳng qua là mùi thịt mấy con lợn nái ngả ra cho bữa bún chả họ ăn mừng với nhau trước khi di cư. Tuy tiếng đồn thế, những người bị bệnh hủi đang luẩn quẩn ăn mày ở kinh kỳ ngày hôm sau vẫn trốn tiệt.

Không biết công việc nhà Chúa thế nào mà sau ngày gặp quan Chánh dường ở Thập Tự cung, Phu tử ngày ngày tư lự ra vào một mình. Ngô thì Nhậm hiện dang trên Sơn Tây, hẹn về gập Phu tử nhưng chưa cho biết ngày tháng. Ngay cả khi mọi người đã chuyển ra ở tư dinh Khương Tả hầu, Phu tử im lặng cả ngày, vẫn tránh không gặp bất cứ ai, thường trằn trọc, đêm dậy ngồi hí hoáy viết lách, nhưng chỉ độ mươi hôm sau lại đem ra xé hết. Nét lo âu khiến Phu tử già đi, và sự cô đơn trĩu nặng đèo vào tuổi tác khiến lưng Phu tử như gù thêm xuống.

Ðám lính canh cho Phu tử thay đổi luôn luôn, nay thì là đội Hậu Hùng, mai lại Tiền Dũng, rồi lần lượt nào là Trung Kính, Tả thị nội, Tiền Ninh. Trong đám lính canh luôn luôn có một người thư lại đi kèm. Vì thế, Bằng Vũ lại có dịp lân la gần Phu tử.

Một tuần sau hôm dọn đến dinh Khương Tả Hầu, Ðặng Thị Mai là cháu gọi Ðặng-thị bằng dì hớt hải đến chào. Thức ngạc nhiên nhìn nét lo âu trong mắt Mai, khẽ đẩy cửa để Mai vào nói chuyện với Phu tử. Tối hôm ấy, Phu tử bảo Toàn Nhật rời khỏi kinh kỳ, tạm lên phố Hiến một thời gian. Nhật gặng hỏi, Phu tử chỉ bảo chính Mai sợ anh ruột mình là Lân sẽ tìm cách hãm hại Nhật. Ðăng Khoa biết chuyện nhưng không nói gì, hẹn sẽ lên thăm Nhật và viết thơ gửi gấm cho một người bạn quen trên phố Hiến, rồi đưa một tờ đặc chỉ cho Toàn Nhật xuất nhập Thăng Long bất cứ lúc nào.

Ðặng Mậu Lân xưa nay hung hãn, cậy vào chị là Ðặng thị Huệ hiện đang được Chúa sủng ái, chẳng chịu thua kém một điều gì với ai. Lân hống hách, cách ăn kiểu mặc bắt chiếc như Vua như Chúa, không chỉ bàn dân mà ngay cả đám quan trong triều hễ gập là tránh. Thấy đàn bà con gái có nhan sắc là bất kể bố mẹ chồng con, Lân cướp về tư dinh. Thỏa mãn xong tính dục, Lân còn quái ác khi thì rạch mặt, khi thì cắt đầu vú, khi lại tọng cán gươm hay đầu côn làm rách toạc tử cung, hềnh hệch cười : « Cho người đẹp giữ chút dấu vết kỷ niệm để nhớ ta nhé ! ». Ðiều tiếng gần xa khắp kinh kỳ, bàn dân gọi Lân là hung thần mắt cú, kêu van đủ chốn nhưng chẳng ai làm gì được.

Mất mặt với đám lính tráng và thủ hạ về chuyện Toàn Nhật giật roi, Lân căm giận, giữa đường về châm đuốc ném vào nhà bàn dân thiên hạ. Nhà cháy nhưng chẳng một ai dám dập lửa, phải đợi Lân đi khỏi. Lần này chuyện gây ra lại giây vào khách của Hoàng Tế Lý. Khổ một cái là Lý và Huệ nay liên kết với nhau, nên Lân không thể qua tay chị để trả thù Toàn Nhật. Nghe Lân kể, Huệ chặn ngay :

- Mày vung tay đánh, người ta chỉ đỡ, thì có gì mà hậm hực ! Người ta không kiện cho là may.

Ðặng Thị Huệ rất khéo miệng, và nhất là cực kỳ nhậy bén đoán được ý của người đối thoại. Nàng ít khi phải nói không với ai, vì lúc nào không muốn thì nàng đã khôn ngoan chặn miệng trước, cho nên ít ai nói được chuyện gì không hợp ý nàng. Dù ngày đêm ở bên cạnh Trịnh Sâm, nàng rất ít ra mặt với chúa nơi đám đông, luôn luôn tỏ ra mình thờ ơ với quyền bính. Nàng thường nhẹ nhàng trả lời với những kẻ đến mua chuộc rằng : «... Những việc quốc sự, xin cứ tâu thẳng với Chúa, hoặc với Quốc cửu là Hoàn quận công. Phận đàn bà, tôi chỉ biết chăm lo công việc Hậu cung cho Chúa mà thôi ». Trịnh Sâm nghe thấy vậy nên rất quí mến, có việc gì tế nhị đều tâm sự cho nàng nghe.

Cũng chính thế cho nên việc Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản và Huân quận công Nguyễn Phương Ðĩnh cách đây sáu năm tìm cách hãm hại Hoàng Tế Lý đã đến tai nàng. Lúc ấy Lý đã cho vợ mình là công chúa Ngọc Tĩnh cùng hai con về Thăng Long ở làm con tin để tránh sự ngờ vực của Trịnh Sâm về ý định thoán ngôi Chúa người ta vu lên. Biết Huệ được sủng ái, Ngọc Tĩnh kết thân với nàng, hai bên tâm đầu ý hợp, ngay đêm thủ thỉ chuyện ra chuyện vào. Sáu năm ròng, mỗi lần Lý về thăm vợ con đều có mang quà cáp vào phủ Chúa chào Huệ. Khi Huệ sinh thế tử Cán, Lý dâng mừng ba mươi cái ngà voi cùng sáu bộ xương hổ, không kể gấm vóc lụa là xếp từng thếp cao đến đầu người. Chính Huệ đã khuyên công chúa Ngọc Tĩnh bàn với Lý để xin Chúa cho về kinh, rồi cũng chính Huệ thay lời Ngọc Tĩnh kêu với Chúa cho Chúa chấp thuận. Trịnh Sâm đa nghi, nhưng biết Lý về kinh thì thân cô thế cô, không còn việc gì phải sợ, nên đồng ý. Về Thăng Long được hai tháng, Lý xin dâng tư dinh của mình làm nhà riêng cho thế tử Trịnh Cán. Chúa rất ưng lòng, lại có Thị Huệ vun vào, nên ngày càng quí Lý, cho Lý ra vào Nộïi phủ như đám hoạn quan, có việc gì cũng hỏi. Ðầu năm sau, Lý đẩy được Khản ra làm Hiệp Trấn Sơn Tây, rồi được phong làm Chánh dường quan, lo lắng toàn bộ chính sự trong phủ Chúa.

Từ ngày Phu tử đến kinh, Trịnh Sâm lại mắc chứng cũ khiến mọi sắp đặt triều chính phải hoãn hết. Nhận được chỉ vời, Lý vội vã vào cung Vọng Hà, nơi Chúa ngự. Qua những hành lang lúc nào cũng rủ chướng để tránh gió, Lý theo bước Thản-Trung hầu. Ðến Trữ Nguyệt viện, Thản Trung lên tiếng báo. Một lát sau, cánh cửa gỗ lim trạm trổ long ly qui phượng mở ra, và một thị nữ cúi mình chào. Lý hơi ngạc nhiên khi thấy Huệ ngồi trên tràng kỷ, miệng nói , tay chỉ : « Xin miễn lễ ... Mời quan Chánh dường ngồi đây ».

Ðặng thị Huệ chạc trên ba mươi, dáng thanh thanh, da ngăm ngăm sắc hồng quân, mũi dọc dừa, miệng hơi mỏng nhưng đài các, đầu đội ngọc miện. Mạêc một bộ xiêm màu xanh biếc, lưng đeo giải vàng có điểm những hạt ngọc hồng to bằng ngón tay cái, nàng ngước cặp mắt đen lay láy hình lá dong nhìn Lý, hỏi :

- Bệnh tình của Chúa ra sao ?

- Khải Vương phi, Chúa lại đau bụng từ ba hôm nay, ăn uống không được ! Chắc là bệnh cũ nên Sùng công cùng với chư quan thị dược đã đồng ý dùng lại toa thuốc hiệu nghiệm năm trước. Nay bệnh lúc tăng lúc giảm, nhưng mạch Xích đã phục, còn hai mạch Quan, Thốn thì khi yếu khi mạnh, chưa biết thế nào ?

- Công việc với La Sơn phu tử đến đâu ?

- Chúa chưa tiếp Phu tử nên công việâc còn đó, chưa nhất quyết gì cả ?

- ý Phu tử thế nào quan Chánh dường có rõ không ?

- Phu tử còn xem xét, và sẽ tự mình khải thẳng với Chúa.

Vương phi ban cho quan Chánh dường một chén nước trà Tĩnh Ngọa. Khi Tế Lý cúi xuống uống thì tai nghe thấy hai lần tiếng chén trà của Vương phi để lên chiếc khay Bạch Ngọc ngân lên nghe như tiếng đánh chuông.

Sau khi Lý và Thản Trung lui ra, Huệ vào phía sau cung Vọng Hà. Ngồi lên vương sàng, rồi đuổi thị tỳ ra, nàng nhìn Trịnh Sâm đang thiêm thiếp ngủ, với tay xem bát thuốc đã uống cạn. Lấy khăn giấp nước, nàng nhẹ nhàng lau trán Chúa đang nhớp nháp mồ hôi. Sâm tỉnh dậy, hé mắt nhìn Huệ, miệng gượng gạo cười :

- Canh mấy rồi ?

- Xin Vương nằm yên, bây giờ là đầu giờ Tuất, Vương còn đau không ?

Sâm chậm rãi :

- Bụng vẫn cứ ngâm ngẩm .

Huệ thò hai ngón tay chậm chạp kéo giải rút, rồi lẳng lặng nằm xuống, bỏ cả bàn tay vào quần Chúa, đưa
lên bụng xoa bóp nhè nhẹ, miệng suỵt soạt :

- Chẳng có sao đâu, cứ thuốc bổ dương có nhân sâm rồi thêm vào một lạng Bắc nhung Miên Huyết Ngưng
Sứ với quế tán là cứng cáp ngay thôi.

Nàng khúc khích cười, tay lần sâu xuống dưới, nói :

- Xem nào ! Ðã khỏe cho em chưa ?

Vừa cười, nàng vừa hổn hển thở vào mơn trớn tai Chúa. Sâm nhắm mắt, mặt nóng bừng, người như lên
đồng, đong đưa theo bàn tay Huệ lúc nhanh lúc chậm. Ðột nhiên, Huệ rút tay ra, ngồi dậy. Sâm mở mắt
nhìn dọ hỏi. Huệ bật khóc rấm rứt :

- Vương mà mệnh hệ nào thì em ra sao? Cứ nghĩ đến thôi là em chẳng còn thiết một thứ gì nữa.

- Ta có bệnh, nhưng đã chữa được một lần thì sẽ chữa được hai lần, chẳng có gì phải lo ...

- Sao lại không phải lo. Thế tử Cán mới lên năm, Vương mà bỏ mẹ con em thì thân cô thế cô, mẹ con em chỉ có chết mà thôi.

- Ðừng nói dại, ta đã nói với nàng là ta đãù định ý. Nhưng việc công không thể hấp tấp, làm gì thì thế nào trăm mắt thiên hạ cũng dòm vào !

Huệ tỉ tê :

- En biết dạ Vương, nhưng một tay Vương đã khuấy đất trọc trời, việc phế lập tưởng chỉ là chuyện cỏn con. Vương lắm mưu lắm kế, thiếu gì cách ! Với lại, em bảo thật, thế tử Tông cũng đã lập bè lập cánh, biết đâu chẳng đợi thời mà lấn tới. Việc ấy,Vương cứ hỏi Tế Lý khắc rõ ... Thôi, chuyện nhà Chúa, Chúa lo, Huệ lại nấc lên, còn thân mẹ con em, em phải lo ...

Sâm nghe Huệ nói, hơi chột dạ, nhưng lên giọng, cứng cáp :

- Ta nằm đây nhưng mắt ta thấy hết, tai ta nghe hết.

Nói xong, Sâm kéo Thị Huệ nằm xuống rồi xoay mình lại. Huệ ngồi bật dậy, má đỏ hây hây, lột phăng áo, bật cười khúc khích, lơi lả :

- Em biết Vương khỏe lại ngay mà. Vương thích gì nào? Gấu nhé, hay báo nhé ?

- Không, làm báo rồi. Hôm nay ta làm con trăn rừng !

Áp miệng cắn nhẹ vào tai Sâm, Huệ thỏ thẻ: « Hôm ấy tối trời, trăng đi đâu mất chỉ còn dăm ông sao mờ, em vào rừng Cúc Phương một mình. Bỗng như có ai bắt lấy bế bổng em lên chạc ba một cái cây. Thì ra là Vương hóa làm ông trăn, mình to bằng củ chuối mắn, cứ trờn lên trờn xuống, dạng hai chân em rồi kéo chổng kên trời. Em đạp chân lật mình lại, miệng kêu « thôi, cho em xin ...» nhưng ông trăn quấn tròn lấy em vật ngã xuống. Ông ấy thò lưỡi ra,ôi cái lưỡi nóng hổi vừa mềm vừa nhơn nhớt cứ theo những đường cong thân thể em lượn uốn nhấm nháp như người nhắm rượu. Cái lưỡi đong đưa đú đởn khiến em ưỡn người cong lên, tay nắm quàng lấy đuôi ông trăn. Vùng mình xiết lấy em cơ hồ đến nghẹt thở, rồi trời ơi, ông trăn chuyển mình vào ngọ ngoạy ... Em rướn chân, ghì vào chạc cây, mồm van vỉ, tay cào tay cấu ...».
Quằn quại theo nhịp bàn tay, Huệ hào hển rồi rít lên cho đến lúc Sâm kêu hộc lên một tiếng, để cho vài giọt sinh lực ứa ra như dăm hạt nước mưa vừa lọt qua kẽ dột. Lúc ấy, nàng thở hắt ra, rồi lẳng lặng nằm yên nhếch mép cười trong bóng tối.

Ngoài Bằng Vũ, sau này đám khách thường tới dinh Khương Tả Hầu thăm Phu tử phần lớn là những bậc thâm nho chuyên dùng việc ngâm vịnh làm cách tiến thân cầu vinh cầu lộc. Duy có một kẻ may mắn đã sẵn có đủ cả là Côn quận công Trịnh Bồng. Bồng ưa thanh tịch, chán chốn quân quyền, quyết chí tìm đường đạo hạnh, hợp với ý nguyện của Phu tử, nên đôi khi lê la ở chơi cả ngày.

Về phía Vũ, sau khi Toàn Nhật lên phố Hiến thì chỉ đánh bạn được với Trọng Thức. Tuy hơn tuổi, Vũ vẫn gọi Thức bằng anh, kính trọng về học vấn, nhưng thâm tâm coi Thức chưa đủ kinh lịch rút ra từ cuộc sống. Vũ là dòng dõi trung thần từ đời Lê Thái Tổ, nhưng gia thế sau cứ lụn dần đi, và nay thì hầu như bần hàn giống như mọi người sống ở thôn quê, gia đình lấy chuyện cấy cày làm gốc. Vì thế, tiếng Thức noi gương Hứa Hành về làm ruộng, bỏ cả danh vọng, không thi cử hầu mong quan cách khiến Vũ ngấm ngầm tâm phục. Không nói ra miệng, Vũ làm cho Thức hiểu rằng chí mình không phải là đi cầu chút bổng lộc mà còn mang nhiều hoài bão khác hẳn giấc mơ của những tên thư lại trong đám lính tam phủ. Vũ vun vào với Thức, cao giọng bảo cái ăn cái mạêc của cả nước là nhờ ở nông dân, những cái nghèo cái đói lại cũng oái oăm đổ vào đầu họ. Chính sự bất công ấy là gốc của những cuộc nổi loạn như loạn Nguyễn Hữu Cầu hay Hoàng công Chất ngày xưa. Gần nhất là năm kia, năm Mậu Tuất, Trần Xuân Trạch cũng dấy quân lên hàng vạn ở khắp trấn Sơn Nam, khiến máu rơi thịt đổ ròng rã cả năm. Vũ chép miệng: « Rồi cũng lại máu xương của đám đi cầy. Con thầy chùa thì cứ quét lá đa thôi ».

Một hôm, Vũ dẫn một người tên Ðàm Xuân Thụ đến giới thiệu với Thức như là bạn tri âm của mình. Thụ vốn là người được sự tin cậy của thế tử Trịnh Tông, gốc gác cũng từ Nghệ An. Thụ nhắn lời thế tử mong gặp Thức đãi một bữa ăn tối. Cực chẳng đã, Thức nhận lời. Trong bữa ăn có cả Nguyễn Du, vì Du là em Khản, và Khản lại là thầy dậy học cho Tông. Câu chuyện xoay quanh chính sự. Tông hỏi:

- Theo sấm ký, nhà Chúa chỉ vượng được hai trăm năm mươi năm. Nay đã đến kỳ hạn. Vậy muốn hưng nhà Chúa thì làm sao ?

Thức ngẫm nghĩ, rồi đáp :

- Muốn có Chúa, tất phải có Vua. Nhà Vua nhà Chúa hưng thịnh có nhau. Vua hưng là do quần dân an cư
lập nghiệp mà hưng. Gốc thịnh của nhà Chúa cũng từ ở đó mà ra.

Tông lại nói :

- Cha tôi nay ốm mai đau, nhưng chuyện lập Ðông Cung vẫn còn bỏ đó. Muốn cáng đáng nghiệp Chúa bây giờ là phải đối đầu với một đám quyền thần đang luồn lách đưa Chúa vào việc phế trưởng lập thứ. Bàn dân
thiên hạ sẽ nghĩ thế nào ?

- Thứ mà còn thơ ấu thì lập thứ là tạo cơ hội cho đám quyền thần thao túng. Cứ xem gương những việc trước thì đó là mầm dẫn đến tai họa. Trong Kinh, đám thần tử cường ngạnh sẽ đâm chém lẫn nhau. Ở ngoài, giặc giã nhân đó lại nổi lên. Theo thiển ý, thế tử cứ yên tâm, ăn ở cho chu toàn chữ hiếu, chữ trung để bàn dân trông cậy vào là sớm muộn gì rồi chẳng bao lâu ngôi chúa lại về trưởng thôi. Ðạo trị nước gốc từ chữ Tâm. Tâm thuận thì tắc trị. Lòng thuận, ắt là theo. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
Khi tạ từ, Trịnh Tông vẫn cứ băn khoăn, bồn chồn ra mặt. Ra khỏi cổng dinh, Du thoát được những câu chuyện chàng vốn không ưa, vui vẻ vừa đi vừa lẩm bẩm : «Thiện căn ở tại lòng ta; chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài », rồi cứ cười tủm một mình.

Trong thời gian đó, bệnh Trịnh Sâm vẫn không thuyên giảm, mỗi ngày lại có phần thêm nguy kịch. Tông xin vào thăm cha, nhưng không được phép. Ngay chính Thánh Mẫu là mẹ Sâm mà cũng chỉ có thể hỏi thăm bệnh tình qua quan thị, duy chỉ có Huệ và Lý là gần gũi Sâm lúc ốm đau. Vì thế, tiếng đồn là Sâm đã dâng biểu xin vua Lê lập Cán làm Ðông cung thế tử xì xào khắp chốn. Tông càng ngày càng bối rối, bực bội đi ra đi vào, không biết phải làm gì.

Một hôm, Tông vào Hậu Mã cung hỏi Lý về bệnh tình cha mình. Lý lạnh nhạt, trả lời cho có rồi khinh khỉnh quay đi. Tông vừa tức, vừa sợ. Rồi không hiểu vì lý do gì, Ðăng Khoa lại đánh người nhà của Tông giữa chợ, còn rủa chúng là bọn làm mất gia phong. Tông tâu xin trị Khoa tội phạm thượng, triều đình không xét mà cũng chẳng bắt Khoa xin lỗi. Tông càng căm, giận mất khôn, ra miệng chửi thẳng hai cha con Lý. Bọn người nhà thân cận của Tông là Dự Vũ, GiaThọ đều lo lắng, bàn là hễ chúa thăng hà thì cứ việc vây bắt ngay Lý và Huệ, rồi gọi quân hai trấn Tây, Bắc về tiếp ứng là đủ diệt cái mầm họa cho Tông ở kinh đô. Nghe xúi giục, Tông nhờ Khuê trung hầu đưa cho Ðàm Xuân Thụ một nghìn lạng bạc nhờ sắm sửa khí giới, đồng thời nhắn lên hai trấn Sơn Tây và Kinh Bắc nhờ mua ngựa và chiêu mộ dũng sĩ. Nguyễn Khản, Hiệp trấn Sơn Tây là thầy dậy Tông, còn Nguyễn Khắc Tuân, hiện là Hiệp Trấn Kinh Bắc, vốn giữ chức A Bảo của Tông nên Tông hết lòng tin cậy.

Không hiểu có ai tố cáo, chuyện vỡ lở ra. Quan Chánh dường Hoàng Tế Lý vào báo với Sâm. Sâm giận đòi trị tội Tông ngay, nhưng Lý can :

- Khải Chúa, thế tử tuổi còn non dại, nếu không có hai quan Hiệp trấn ở Tây, Bắc đằng sau thì chắc chẳng dám chiêu binh mộ sĩ. Xin cứ lẳng lặng điều hai người đó về Kinh trước, rồi sau hãy xử tội, nếu không có thể xảy ra những biến họa khác không chừng.

Sâm nghe lời, gọi Tông vào giả trách mắng về chuyện học hành, đồng thời xuống mật chỉ vời Nguyễn Khắc Tuân và Nguyễn Khản về Kinh. Lúc ấy, Ngô Thì Nhậm, tự Hy Doãn, đương là Ðốc đồng Kinh Bắc cũng theo về. Tuân và Khản bị bắt ngay khi vào đến Thăng Long. Nhậm tìm đến dinh Khương Tả Hầu vào chuyện trò với Phu tử. Phu tử ghé vào tai Nhậm nói gì không ai biết, nhưng nghe xong, Nhậm tái mặt lại, than: « Không được, không được rồi ! ». Sau đó, Nhậm vái Phu tử rồi về quê ngay, lưu lại một tờ khải Chúa xin vắng mặt để lo việc tang ma cho cha mình là Ngô thì Sĩ. Nhậm vừa ra khỏi, một viên hành tẩu cấp tốc mang lệnh cho đội Hậu Dũng đang đóng ở dinh Khương Tả Hầu. Người thư lại của đội vào thì thào với Phu tử, trong khi đó lính đội Hậu Dũng đã trói gô Trọng Thức lại. Một lát sau, sáu người trong Nội Mật viện đến áp tải Trọng Thức về Thị Kỵ cung trong Nội phủ.

Tay bị bẻ quặt ra phía sau, đầu chúi xuống như đeo đá dưới bàn tay hộ pháp của tên cai ngục, Thức gập mình lách qua cánh cửa hẹp vừa đủ một người lọt. Phòng giam lờ mờ một thứ ánh sáng đục sệt, mùi mồ hôi ngai ngái như mỡ chiên cá ngột ngạt bốc lên, vừa tanh vừa lợ. Tên cai ngục tay nắm cổ Thức đẩy về phía trước, cứ bước một bước lại văng tục một câu. Qua hai dãy người ngồi kẻ nằm, chân bị cùm vào những chiếc gông dài khoảng tám thước chạy dọc phòng giam, tên cai ngục ấn Thức xuống, xẵng giọng :

- Duỗi hai chân ra, ngồi co lên.

Tiếng xích kêu loảng xoảng, tiếng gỗ đập chát chúa vào nhau, rồi một giọng khàn khàn ngay bên cạnh quát nhỏ :

- Nhẹ tay chứ, thằng chó... Ðau chân ông mày đây...

Tên cai ngục lầm lì không đáp lại, quay đầu đi thẳng.

Thức nhắm mắt định thần một lúc, rồi hé nhìn ra. Phòng giam rộng độ hai mươi thước vuông, nền bằng đất nện, vách bằng gạch cao gấp đôi đầu người, sát nóc là kẽ hở có đóng then gỗ để cho không khí và một chút lợt lạt ánh sáng hắt vào. Trong phòng dễ có ba bốn chục người bị cùm theo hàng dọc, cứ mỗi cái
gông là cùm đúng ba người. Ở góc phòng giam, một tiếng ồ ồ cất lên :

- Bác gì mới vào đây đấy? Vào cùng hội này cho vui ! Ở đây giờ Ngọ được ra ngoài ăn cơm, đúng ba khắc
lại vào. Ðến cuối giờ Dần là cơm chiều. Bác phải nhịn tiểu, đến giờ ăn ra sân tha hồ. Nói chuyện được nhưng nhỏ tiếng thôi. Ðầu giờ Thìn là cấm nói, cả làng đi ngủ ...

Tiếng ho húng hắng cắt ngang, rồi tiếng ồ ồ lại tiếp :

- Hàng quán đây cũng có, tiền có trao, cháo mới múc, trừ loại khách quen. Nước chè một chinh, thuốc lào thì sáu, rượu chén hạt mít tính mười... Cứ mỗi sáng, một bọn được thả cùm để lo việc phục dịch, ai đến phiên người ấy làm, tiền nộp lại cho bọn cai ngục. Chớ dại ăn quịt nó đáùnh cho què tay, què chân... Bác có gì muốn hỏi không ?

Trọng Thức chưa kịp trả lời, người cùm bên cạnh, kẻ vừa chửi tên cai ngục, giật giọng gọi to :

- ... Cho tớ cút rượu đãi ông bạn hàng xóm mới vào chiếu.

Trọng Thức quay sang cám ơn rồi từ chối. Người đàn ông chắc trên dưới sáu mươi, người xương xẩu, cao lớn quá khổ, râu tóc lởm chởm bạc thếch, ngồi thẳng dậy, mắt chòng chọc nhìn Thức :

- ...Thế thì bác chẳng ra cái giống nam nhi chúng tôi rồi.

Với tay lấy cút rượu vừa mang lại, ông hả mồm tu ừng ực một hơi, tay kia nắm lấy người xách rượu. Uống xong, ông ta chìa cái cút rượu ra trả, lần túi giả như tìm tiền, há mồm cười hềnh hệch, nói lớn :

- Chú lại ghi cho ta, bổng vua ta chưa kịp lấy, hà hà...

Ngồi dựa người vào vách, ông ta nhịp tay hát toáng lên :

Này con chim cánh đen,

mỏ vàng mày nhọn,

cựa vàng mày sắc.

Cái lồng nhốt mày bằng nan mục nát,

cứ phá cho tan, rồi bay ra, bay xa...

Tiếng hát nhỏ dần, im bặt và tiếng ngáy phì phò nổi lên như người kéo bễ. Người bị cùm phía phải Thức khẽ vỗ vào tay chàng, ra hiệu lặng im, rồi cũng nhắm mắt lại không nói năng gì cả. Thức thiếp dần trong cái oi bức tưởng ngọâp thở. Mồ hôi cứ ri rỉ nhớp nháp khiến chập sau Thức tỉnh dậy, lột áo ra gấp làm gối tựa đầu. Người bên phải thì thào :

- Cởi nốt cả quần dài ra, tí còn oi hơn nữa. Bác chuyển từ dưới lên ?

Chưa kịp trả lời thì người đó tiếp :

- ...Ở dưới thì chưa cùm chân...

Người đàn ông nãy vừa uống cút rượu bị cùm phía trái bỗng lại ồm ồm lên tiếng :

- ...Còn trên thì cùm cả tay, đến chỗ này chỉ cùm chân là dưới cái ở trên, nhưng trên cái ở dưới, hà hà... !

Thức gật đầu. Người đó lại xoay sang Thức :

- Bác tội gì ?

Thức cười mũi :

- Tôi chưa biết !

- Không biết tội mình là một cái tội. Nhiều khi là tội lớn hơn mọi tội đấy!

- Thế còn cụ ?

Người đàn ông vỗ đùi cười ha hả, rồi trỏ vào người bị cùm phía tay phải :

- ...Tội hả ? Thì bác cứ hỏi quan đây là Lãnh cơ trấn Sơn Nam ắt biết ! Tội của ông ấy là tội của tôi đấy! Còn ông ấy, cũng ngây ngô như bác, giả không biết tội, nên tội lại càng tầy đình.

Lãnh cơ Sơn Nam ngắt lời :

- Tôi là Nguyễn Quốc Chấn, vừa theo Tuân sinh hầu về đến cửa Tây thì bị Cấm binh bắt ngay, thật chẳng biết gì, tin tức với bên ngoài không có, lại chưa ai hỏi đến. Ông bên kia là Dương Quang, cùng làng với tôi ở
Hải Hậu, nay sinh sống trên Sơn Nam... Còn bác ?

Thức tự giới thiệu, kể chuyện mình theo thầy về kinh được trên ba tháng nay, và đã có gặp Trịnh Tông trong một bữa cơm tối. Dương Quang ngồi im, nghe xong chép miệng :

- Thế ra bác là ông đồ cứng cổ làm ruộng ở La Sơn đấy! Nhưng chắc chẳng phải vì việc ấy mà bị bắt đâu.
Gặp thế tử Tông, bác bàn chuyện gì ?

- Thật mà thưa, chẳng có chi đáng kể ! Thế tử hỏi gì, tôi biết thì cứ thẳng mà nói, thế thôi !

- Nói thế nào ?

Thức thuật hết đầu đuôi, rồi nhắc lại :

- ...vậy Thế tử cứ yên tâm, ăn ở cho chu toàn chữ trung chữ hiếu để bàn dân trông cậy vào...Ðạo trị nước gốc từ chữ Tâm. Tâm thuận tắc trị.

Nghe đến đấy, Dương Quang nhanh tay quơ sang chẹn lấy mồm Thức, tru lên :

- Vẫn cái giọng ấy, nghe nói thối như cứt ... Thôi, cái này nói thì chẳng ai nghe. Bác nói thế, cũng chẳng ai thèm bắt bác, bác thầy đồ dở hơi kia ơi ! Ðúng, đúng là thối... Còn nói chuyện với nhau, bác đừng giở giọng nhân nghiã sách vở kiểu đó ra với tôi nữa, tôi nghe tôi nổi cơn lên thì ... thì tôi bóp cổ cho chết sặc.

Dương Quang năm mười lăm tuổi bỏ nhà đi theo Nguyễn Hữu Cầu, người dân miệt biển từ Hải Dương đến Yên Quảng gọi là quận He. Cầu tự xưng là Tổng Quốc Bảo Dân Tướng, kéo theo cả vạn người dấy binh chống lại đời Chúa trước là Trịnh Doanh. Ba mươi năm trước, Cầu bị nội phản, chạy về Nghệ An thì bị tướng Trịnh là Phạm Ðình Trọng đuổi bắt được. Dương Quang thoát vây, chạy về với Hoàng Công Chất, lúc ấy chỉ huy nghĩa binh vùng Hưng Hóa. Chất cầm cự với quân Trịnh trên dưới gần được ba giáp, chết già, để con là Toản lên thay. Toản tính nhỏ mọn, vừa nắm quyền là tìm cách loại Quang khỏi hàng ngũ. Quang phải chạy sang Quảng Ðông, từ đó lưu lạc qua Hương Cảng, Tân gia Ba, Phù Tang, đến Xiêm La, rồi Vạn Tượng. Ðến tuổi tri thiên mệnh, Quang mò về làng. Ðâu chỉ tháng sau là quan nha đã rình mò, sau đó Nguyễn Quốc Chấn, lúc ấy đã là Lãnh cơ ở Sơn Nam gọi Quang bằng dượng, phải về can thiệp mang Quang lên chỗ mình trấn nhiệm. Mấy năm về đây, Quang suốt ngày đánh bễ, luyện thép làm nòng súng. Ai hỏi để làm gì thì Quang chỉ vào lò lửa đỏ rừng rực, hề hề cười bảo : « Ðấy, tương lai đấy » . Người ta lại đồn là khi đi làm loạn, Quang đào dấu được đâu một kho tàng to bằng kho của nhà Chúa. Khi có kẻ tò mò thóc mách, hỏi gần hỏi xa, Quang lại chỉ vào bễ, giọng nửa bí mật, nửa khôi hài : «Thì đấy, nó là vàng là tiền đấy ! ».
Hai hôm sau khi nói chuyện với Trọng Thức, Quang ngày nào cũng ngủ vùi, khi tỉnh thì chỉ ư ử hát, chẳng buồn để ý đến ngoại cảnh. Sáng ngày thứ ba, Quang chợt khều tay Thức hỏi :

- Chú em có giận gì anh không ? Hôm nọ anh nói nặng, chắc chú em không quen nhỉ ?

Thức ngạc nhiên nghe cách xưng hô thay đổi, lẳng lặng lắc đầu. Quang ghé vào tai Thức thì thào :

- Nói rằng « Tâm thuận tắc trị » là rỗng tuếch rỗng toác. Làm chó gì có chuyện ấy. Tâm là tâm ai, tâm bao nhiêu mạng chúng sinh để mà thuận rồi trị. Mà trị là trị thế nào ? Trị dính gì vào tâm con người ? Người bị trị mà không thấy trị, tức là tâm không vì trị mà động. Không động mới thật là thuận. Như thế ắt « tắc trị » à ? Vậy có khác gì phóng nhiệm, để mặc tự nhiên, «vô vi nhi trị ». Nhưng muốn nhi trị thì phải trị từ lúc vô thủy vô chung. Bây giờ, đầu chúng sinh chập chùng chồng chất những xấu xa từ bao thế hệ nay. Liệu còn cách gì đưa con người về cái hồn nhiên con trẻ tự gốc nó là thiện nữa? Thôi đi chú em ơi, đó là chuyện tầm phào, tâm thuận vô phương mà có được. Còn tắc trị ư ? cứ cho roi cho vọt, sui thằng bần đánh thằng hàn một chặp, rồi chặp sau lại bảy thằng hàn đánh thằng bần, là xong, ha ha ha...

Thức chăm chú nghe Dương Quang, rồi từ tốn :

- Tâm thuận rút lại là người người đều thấy vua ra vua, quan ra quan, cha ra cha, con ra con. Quân, Thần, Phụ, Tử đâu ở đó, cư xử cứ đúng tam cương ngũ thường, lấy đó làm hòn đá tảng dựng nền để xây lại đời Nghiêu, đời Thuấn.

- Ðược. Cứ cho là vậy. Nếu vua không ra vua, quan không ra quan thì sao ? Ai đặt ra vua ra quan ?

- Vua mang thiên mệnh, đến từ lòng trời. Vua đặt ra quan. Vua không ra vua thì dùng lời ngay mà khuyên, quan không ra quan thì lấy lẽ phải mà thuyết.

- Lòng trời ? A ha ! Thế khi Thái sư Trần Thủ Ðộ bẫy xập chết hết ba trăm đứa tôn thất nhà Lý rồi ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh là lòng trời ư ? Ai đo được lòng trời ? Chứng cớ gì mà gọi là lòng trời ? Ăn cắp con gà con vịt, bị bắt trói gô lại, đánh năm mươi trượng là trị tội ăn cắp vặt. Ăn cướp con trâu con bò, đánh hai trăm trượng, tịch biên nhà cửa là trị tội cướp cạn. Làm giạêc chiếm dinh, chiếm quận, lấy sưu lấy thuế thì xử tử, là trị tội phản tặc. Còn lấy đứt đi cả một triều đình, lại giết cả ba họ nhà vua để tiện miệng xưng vương xưng đế, thì các vị khoa bảng chữ tốt văn hay lại hoa mỹ gọi là thiên mệnh, cứ thuận lòng trời mà làm, ha ha ... Rồi xua quân đi dùng sức mạnh mà cướp cả nước Chàm, đuổi dân người ta chạy vào rừng xanh núi đỏ, thì mình vỗ tay reo là mở mang bờ cõi, cái thế anh hùng. Chỉ có Vua mới làm được việc ăn cướp như thế, lại thế thiên hành đạo, nên chính cái việc cướp bóc đó cũng là bởi lòng Trời... Dương Quang nhổ nước bọt, giọng khinh bạc, tiếp...Cứ qui tất cả vào thiên mệnh cho gọn, ha ha... mà thiên mệnh thì tránh thế quái nào được, phải không chú em ?

Còn cái lũ quan quyền. Chúng lập thân từ khoa bảng từ chương, tập tành miệng lưỡi ngay hồi tấm bé, chuyên đánh đĩ, tán tỉnh, nói theo, nói hớt. Ít đứa dám tự mình suy xét, luận ra lẽ trái lẽ phải bằng cái đầu của chính chúng nó. Cứ vứt cái gì ra cho chúng nó ăn, tất chúng nó vỗ tay tán tụng rồi xì xào là ân với đức. Thời loạn lạc, vừa vứt cho ăn vừa hứa hẹn là sẽ còn thêm, có đứa cũng liều mạng vào nơi hiểm nguy để ra cái điều công lao hãn mã. Ăn bằng mồm thôi chưa đủ, lắm đứa còn nhấp nhổm lưu danh để tiếng cho đời. A ! bọn này tinh tế hơn, không bạ gì nuốt nấy, hậm hực cao rao đạo lý, chơi kiểu mồm miệng đỡ chân tay...

Dương Quang ngưng nói, tay vân vê vài sợi râu bạc thếch, thở dài :

- ... Về phần đám dân đen thấp cổ bé miệng, nào là sưu là thuế, nào là sai là dịch, bắt đinh bắt lính. Với dân, đám có quyền có bính cứ mềm nắn rắn buông, bởi lẽ không buông thì cùng quá hóa giặc. Lúc ấy được làm vua. Còn thua ư ? Là mãi mãi giặc. Từ năm mươi năm nay, lúc nào cũng giặc, giặc lớn có, giặc nhỏ đầy rẫy kể không xuểå. Năm Mậu Thìn, ta mang tiền quân cụ Quạân He đổ vào bến Bồ Ðề ven Thăng Long.Thủ lĩnh Lân cầm chân được binh nhà Trịnh trên Sơn Tây và Kinh Bắc, chặn đường cứu viện của bọn Phạm Ðình Trọng và Hoàng Phùng Cơ. Quân ta vây chặt phủ Chúa, đợi quân bộ cụ Quận từ miệt Sơn Nam kéo vào là đánh. Cụ Quận hai ngày sau mới tới được, mặt mũi rám thuốâc đạn, mừng mừng tủi tủi hỏi ta về binh tình. Ta ước chỉ một ngày là dẹp xong đám quân phủ Vua phủ Chúa mà thôi. Ta hỏi lại : «... Ðánh xong, chủ tướng làm gì ? ». Cụ Quận ngẩn người ra ngẫm nghĩ rồi nói : « Ta không định làm Vua... Ta không biết làm Vua bây giờ để làm gì .. ». Ta nói với cụ : « Chiếm được nhưng giữ thì không dễ, mà giữ lại không muốn làm Vua thì vô lý lắm ». Cụ Quận suy đi tính lại rồi bảo : « Ta cũng không định làm Chúa, làm Chúa người ta chửi cho » rồi cụ quyết định rút quân. Về đến căn cứ, ta hỏi : «... Chẳng lẽ cứ làm giặc mãi à ?¨ » thì cụ gắt nhặng lên : « Thời này mày không làm giặc thì làm gì ? ». Ta bạo miệng nói : « Chủ tướng làm Vua thì Dương Quang này chỉ xin đi điều người đắp đê sông Nhị cứu lụt. Mỗi năm mỗi lụt dân đói dân khổ lắm ...» Mắt cụ Quận sáng lên, rồi bỗng tối xầm lại : « Tiên sư nhà mày, sao không nói lúc ở Thăng Long ? Giờ muộn mất rồi còn gì ! ».

Dương Quang lại im tiếng, tay đánh nhịp vào vòng xiềng buộc đầu gông, nhắm mắt đắm người vào cái quá khứ vừa được đánh thức dậy. Chập sau, ông lại se sẽ hát, rồi thiếp ngủ đi lúc nào chẳng ai biết.

Sau những buổi trò chuyện với Dương Quang, Trọng Thức ngày càng rõ ra là kiến thức của mình chỉ rặt những thể loại trừu tượng, những mẫu mực lý tưởng đã định sẵn. Trước những câu Quang luôn miệng hỏi là tại sao ? làm thế nào ? và để cho ai ? thì Thức lúng túng nói quanh, rút cục đành nhận cái thiếu xót hiển nhiên đó. Với những kẻ ra làm quan vỗ ngực đóng vai cha mẹ của bàn dân, thứ thiếu xót này tựa như vực thẳm, mênh mang đến chóng mặt. Quái lạ, sao lại không một ai đề cập đến nó từ bao nhiêu thế hệ nhà Nho ở cái xứ sở này nhỉ ?

Ban đầu, Thức chỉ cho rằng Quang lịch lãm, từng trải, nên Quang hẳn có loại kiến thức thực dụng. Về sau, Thức biết mình lầm. Từ ngạc nhiên nay đến ngạc nhiên khác, Thức lờ mờ đón nhận từ Quang một cách suy nghĩ dựa trên những phê phán rất độc lập. Khác hẳn với cái biết của Nho gia lâu nay khô sượng rập khuôn, nó sống động, táo tợn, đôi khi mới mẻ đến bất ngờ. Suy nghĩ đó đang thai nghén để định hình nên lại càng vô cùng hấp dẫn, quyến rũ tri thức vào những vùng đất cấm của thời đương đại.

- Quân, Sư, Phụ - Quang cao giọng - chẳng qua là một cách áp bức tinh vi đến độ những kẻ bị áp bức sẵn sàng chết để bảo vệ chính sự áp bức đó. Ðừng hỏi vua là ai vội. Trước tiên, Vua là gì ? Là cái chính chúng ta - lũ bàn dân - đặt lên ngai, trao quyền, tung hô là Vua. Ðó chỉ thuần là định danh. Còn thực thế nào ? Ðịnh danh Vua xong, ta co lại định phận cho mình : ta là phận dân ngu, cúi mặt xuống đất đen, đợi ơn mưa móc từ cái ta vừa định danh. Rồi ta cong lưng quị gối xin rằêng Vua là minh quân ! Làm sao có được minh quân ? Bàn dân bấy giờ chắp tay cầu Trời khấn Phật : có ư, có là bởi may, nếu không, ấy lại do thiên mệnh đã định cả. Khổ một nỗi, minh quân đời nào cũng hiếm. Sao vậy? Bởi ta chưa biết cách, bàn dân chưa biết cách tạo ra minh quân ! Này chú em, chú phải tìm ra cái cách gì mà khi bàn dân đã nhận là Quân thì Quân ắt phải Minh...Phải chăng quân thần chẳng qua là một định ước của toàn bàn dân thiên hạ về quyền hành giới hạn cho một người, hay thậm chí một số người, để làm cái công việc mà mỗi cá nhân người dân không thể, hay không muốn, trực tiếp làm. Tóm lại, đó chỉ là một công ước về sự ủy nhiệm. Tối thiểu, cái công ước đó phải đảm bảo người được ủy quyền không biến dạng ra kẻ thống trị, và người trao quyền - là bàn dân - không phân hóa thành kẻ bị trị. Cứ thế, quân ắt phải minh chính là do qui chế của cái công ước bàn dân cùng định. Không đủ minh thì chính cái qui chế vừa nói sẽ định cách thế quân...

Ngưng nói, Quang trầm ngâm một lát, rồi tiếp tục thì thào như tâm sự :

- Chú em ạ ! Quân mà muốn cho Minh thì phải tuyệt đối tránh tập trung quyền sinh quyền sát vào tay một số người, nhất là khi họ có khả năng bám giữ quyền lực một cách vô hạn định. Thời gian và quyền lực trộn lại là độc tố tiêu mòn mọi đạo đức. Thậm chí, nó có thể giết sạch tính người, và từ đó xóa sổ luôn cả xã hội : những con người bị áp bức cứ dần dần đánh rơi mất nhân tính hòng tồn tại, một thứ tồn tại thuần theo bản năng của mọi loài động vật...

Một buổi sáng, cai ngục vào gọi Thức ra cho gặp người nhà vào thăm. Thức đoán là Phu tử, hỏi nhưng tên cai ngục chỉ giục :

- Nhanh lên, ra ắt gặp...

Ðưa Thức đến một gian ở chái sau trong ngục, hai tên đầu trâu mặt ngựa lực lưỡng đã đợi sẵn hất hàm ra lệnh bắt Thức cởi hết quần áo. Trần truồng như nhộng, Thức bất ngờ bị một cú đấm vào giữa mặt. Thức cắn răng, nỗi nhục nhã đau không kém gì những cái đá, cái đạp, cùng những tiếng chửi tục. Một tên răng vổ chửi « ... Cha tiên sư mày ! » rồi quay vòng thúc cán gậy vào trán Thức. Xây xẩm, Thức thấy một nghìn con đom đóm trong mắt bay ra, ngã phục xuống thềm đất ẩm ướt. Máu trên trán Thức tóe ra, phun có vòi, lai láng chảy xuống mũi, xuống mồm. Ðầu lơ mơ, Thức nghe văng vẳng « ... nhẹ tay chứ. Nó chết là mày phải tội đấy ».

Gần trưa, chúng nó dìu Thức ra phía sân trước. Người đến thăm Thức là Ðặng thị Mai. Mặt mũi sưng vù, thâm tím, trán toác ra, máu còn nhỏ giọt qua nắm thuốc lào rịt vào chỗ đánh, Thức vẫn gượng cười gật đầu chào Mai. Xanh như tàu lá, Mai nén cơn sợ hãi nhìn Thức. Xin một thau nước, Mai nhúng khăn ướt, lẳng lặng lau máu trên mặt Thức, lòng vừa thương xót, vừa căm giận, nước mắt ứa ra.

Thức ghìm cơn đau hỏi thăm tin Phu tử. Mai gửi lời Phu tử nhắn Thức rằng không phạm tội thì tuyệt đối không bao giờ nhận tội gì cả, sống chết có số, chẳng có chi mà sợ. Lần này, nghe đến hai chữ số mệnh, Thức miệng rách toạc mà vẫn ngoác ra không nhịn được cười, mồm cười như mếu, khiến Mai không hiểu gì, đã sợ lại càng sợ. Chia tay, Mai nắm lấy tay Thức dúi vào một bọc vải, mắt nhìn như thể gửi gắm một điều gì chẳng thể nói ra miệng.

Thức bị lôi về phòng giam, lại ngồi cùm, gượng cười với Quốc Chấn và Dương Quang. Quang chửi tục, xé một mảnh áo, gọi lớn « ... mang cho ít thuốc lào đây ». Rịt thuốc lại, rồi băng bó cho Thức, Quang vừa làm vừa hỏi đầu đuôi. Thức nhịn đau, kể lại lời nhắn của Phu tử. Quang trầm ngâm một lúc rồi bảo :

- Chúng nó đánh chú em là để làm áp lực trên Nguyễn Thiếp ! Áp lực gì chú em có đoán ra không ?

Thức trả lời :

- Chắc việc phế Tông lập Cán !

Dương Quang lắc đầu:

- Không cần thế ! Bắt Tông rồi, lại bắt luôn cả Nguyễn Khắc Tuân và Nguyễn Khản, thì việc phế Tông coi như đã xong.

Thức xòe tay mở bọc vải Mai đưa. Trong bọc vải là một chục quan tiền, và một tờ giấy, soi ra sáng có ghi hai chữ Trung Nhu. Thức hỉ hả vỗ vai Quang :

- Em có tiền cho hai bác uống rượu đây !

Dương Quang vẫn lầm lì bất động. Một lát sau, Quang bỗng phá lên cười sằng sặc :

- Ta hiểu rồi ! Quang hạ giọng - không sao đâu, chú em ạ ! Nguyễn Thiếp thừa sức suy ra được. Chúng nó mang chú em ra xử là thế dương đông kích tây, nhắm vào Nguyễn Thiếp buộc làm một điều gì đó. Chú nhớ cứ một mực cứ kêu mình vô tội nhé, hà hà...

Ôm lấy vai Thức rồi chồm người về phía Quốc Chấn, Quang nói to :

- Có tiền chỉ để có rượu, có thuốc. Chú uống với anh chai này đánh đố với ông xanh xem sao nhé. Bớ rượu đâu, mang cả chai đến đây... Nợ ta trả hết một thể... Chú em cũng làm một chén với anh. Ha ha, nợ nào ta cũng sẽ trả... ha ha ha...

Một chập sau, những người tù bị giam chung lại nghe tiếng Dương Quang ồm ồm hát : Này con chim cánh đen.... mỏ vàng mày nhọn... cái lồng nhốt mày bằng nan mục nát ... cứ phá cho tan , rồi bay ra, bay xa...

Khoảng một tháng sau ngày tốâng giam, Chúa giao cho Nghĩa Phái hầu Lê Quí Ðôn hiện là Ðồng tham tụng tra xét Tông, Khải, Khắc Tuân và bè đảng của Tông, trong đó có một số thư lại thuộc lính tam phủ như bọn Trần Nguyên Nhưng, Mai Doãn Khê, Nhưng Thọ ... Ðến lượt luận tội Thức, quan Ðồng tham tụng nghe tiếng nên tiếc tài, giả vờ quở :

- Ngươi mới đặt chân tới Kinh Kỳ, ở chốn thôn dã nên dễ bị người lung lạc, cứ biết sao nói vậy, thật thà kể ra hết thì giảm tội.

Thức thuật lại mọi chi tiết trong bữa tiệc Tông mời buổi tối cách đây hai tháng. Quan định tâm tha nhưng viện Nội Mật đòi Thức đối chất với Ðàm Xuân Thụ. Thụ kể :

- ... Trọng Thức còn xướng lên : « Chữ Binh kia mới bằng ba chữ Quyền » và bảo riêng với tôi rằng cái xương sống của quyền lực nằm dọc theo lưng lưỡi kiếm.

Thức lắc đầu cười nhạt không nhận. Người của Nội Mật lại khai rằng năm xưa có tin Thức định làm loạn. Chính Nguyễn Khản đã can thiệp với Hiệp Trấn Nghệ An là Hoàng Tế Lý để bỏ cái lệnh cấm Thức không được ra khỏi hai huyện Thanh Chương và Thanh Oai. Ngày nay, bám được vào Tông với Khản, Thức chẳng qua lại ngựa quen đường cũ nên nài quan Ðồng tham tụng định tội mưu phản. Nhìn thẳng vào mặt Ðàm
Xuân Thụ, Thức hỏi :

- Ông xưng là gia nhân thế tử Tông đến mời tôi, lúc ấy ông đã làm trong Nội Mật viện chưa ?

Không đợi Thụ trả lời, quay sang Lê Quí Ðôn, Thức tiếp :

-Trình quan, viện Nội Mật buộc ai thì người đó không cũng thành có tội, tha thì có tội lại thành không. Kẻ tiện dân là cá nằm trên thớt, quan xử thế nào cũng chỉ là chuyện để phiếm mà thôi.

Quan Ðồng tham tụng ngại ngùng rồi tạm hoãn việc định tội lại.

Ngay buổi chiều sau ngày luận tội Trọng Thức, Phu tử đòi gặp quan Chánh dường Hoàng Tế Lý. Khác mọi lần trước, Lý bắt Phu tử đợi đến lúc mặt trời xế bóng mới mời vào điện Hậu Mã, nơi Lý đến nghỉ ngơi sau khi chầu Chúa. Lạnh lùng, Lý đưa tay mời ngồi, không nói năng gì. Phu tử nhìn vào mắt Lý một chặp, rồi chậm rãi đi thẳng vào câu chuyện giằng co với công việc nhà Chúa từ ngày đến đất Thăng Long :

- Trăm họ, kể cả họ Nguyễn ở La Sơn đã hơn hai trăm năm nay ăn lộc của Vua của Chúa. Xưa, đức Trạng Trình đã dặn « muốn ăn oản thì phải thờ Phật ». Cách đây hai năm, Chúa đã sai Vũ Trần Thiệu sang cống hiến nhà Thanh, mật biểu rằng con cháu nhà Lê không còn có ai xứng đáng để nối dõi nghiệp Ðế. Quan Chánh dường thừa biết là Thiệu đến Ðộng Ðình hồ thì nuốt biểu vào bụng rồi uống thuốc độc mà chết, tránh cho nhà Chúa cái chuyện đại nghịch. Nguyễn Thiếp tôi dẫu ngu muội cũng không thể nào không lấy đó làm tấm gương cho mình, nên dù cả họ phải chết để giữ toàn tiếng cho Chúa cũng đành chịu chứ có xá chi một mạng Trọng Thức ! Như vậy, bắt tôi đồng lòng soán ngôi nhà Lê thì nhất quyết là tôi không...

Phu tử ngừng nói, nâng tách trà uống từ tốn, rồi tiếp :

- ...Phần Trọng Thức, tôi vừa là thầy, lại vừa là bác nên nó bị Nội Mật viện khải tội thì tôi chỉ còn biết dậm chân kêu trời, xấu hổ không dám nhìn Chúa, xin ông tâu Chúa cho Thiếp này về lại nơi thôn dã.

Phu tử đứng dậy, vòng tay chào, cười nhạt :

- Nếu chính là ngài bắt tội họ Nguyễn ở La Sơn thì chừa ra Toàn Nhật. Không biết đích thực bố nó có phải họ Hoàng không, nhưng mẹ nó là người họ Võ. Võ thị đã trầm mình trong dòng Lam Giang khi thằng bé mới đẻ, tôi đem nó về nuôi khi lên mười là nuôi hộ cho bố nó đấy !

Lý mặt sầm lại, gượng gạo mời Phu tử ngồi, song gằn giọng :

- Việc soán thì thôi. Còn việc phế Tông lập Cán ?

Phu tử ngẫm nghĩ , rồi lắc đầu chán nản thở dài :

- Việc đó cứ coi là việc riêng nhà Chúa,Thiếp này là kẻ tiện dân nên muốn hay không cũng chỉ cắn răng cúi đầu ngậm miệng.

Mươi ngày sau, Trịnh Sâm vời đủ mặt đông đảo quan thị trong triều, khóc như thói quen của những người có cái quyền định đoạt sinh mạng kẻ khác lúc sắp sửa giết ai. Lấy khăn chấm nước mắt, Sâm phán: « Tông và bè đảng đều phạm tội đại nghịch, theo sách Xuân Thu thì lẽ ra là phải xử chém. Song nghĩ tình máu mủ, nay không bắt chết nhưng đánh xuống làm conn «út » giam vào Nội phủ. Hồng-lĩnh hầu, Tuân-sinh hầu và Khê-trung hầu đều là công thần đã theo ta từ thuở mới chấp chính nên cho phép được tự xử chứ không mang chém. Kỳ dư, bè đảng của Tông cứ theo định tội mà làm, không được giảm xá ».

Lê Chính giữ một chức quan nhỏ trong Lượng phủ ra quì tâu: « ...có những kẻ đã dồn Thế Tử vào đường cùng cho mới nên nông nỗi ». Trịnh Sâm gạt tay không cho Chính nói tiếp. Khi tan chầu, Lý đợi Chính ở cửa phủ, nhìn vào mắt, khen « Cậu rõ là người khôn ngoan », tiếng cậu là tiếng chỉ quan thị dưới đời Lê-Trịnh. Ngay hôm sau, Chính mang cả gia đình trốn nhưng bị người trong Nội Mật viện bắt lại. Lê Chính tự tử nhưng được cứu không chết, năm sau mới ra khỏi ngục trong buổi loạn Kiêu Binh.

Khản làm một bài văn Nôm lén chuyền được vào cho Chúa, kể lể tình xưa nghĩa cũ với Chúa. Trịnh Sâm đọc xong, nhớ lại cái thuở Khản hết lòng phò mình, ngần ngừ rồi cuối cùng giảm án cho Khản, không bắt chết mà chỉ giam vào dinh Quận Châu. Hoàng Tế Lý rất bực bội, nhớ lại chuyện Khản và Ðĩnh định hại mình cách đây dăm năm. Lý biết lỡ dịp này thì khó diệt được Khản nên vào nói nhờ Thị Huệ can thiệp. Sâm khăng khăng ý mình. Thị Huệ giựt viên ngọc quí Sâm lấy được khi vào chinh chiến Ðàng Trong vẫn đính trên áo ngự quăng xuống đất, miệng gào khóc kể lể. Sâm cuốâng quít, làm hề chọc cười Huệ, nhưng Huệ lại càng khóc to hơn nữa. Cuối buổi tối hôm đó, để cho Huệ vui lên, Sâm đành hứa gả con gái là công chúa Ngọc Lan cho Ðặng Mậu Lân, tên hung thần mắt cú.

Ít lâu sau, Tuân sinh hầu và Khê trung hầu đều uống thuốc độc tự tử. Về phần Trọng Thức, có mọât người lạ mạêt nhận là kẻ phục dịch cho Tông ra phản cung Ðàm Xuân Thụ. Viện Nội Mật cũng thôi không o ép nên Thức xem như trắng tội.

Ngày Thức được thả ra là ngày mười sáu tháng chín. Hôm ấy cũng là ngày đao phủ đem chém dư đảng của Tông, đếm ra đúng chín mươi bẩy nhân mạng. Pháp trường được đặt trên mặt đê Yên Phụ, cách chùa Trấn Quốc chừng non một dặm. Buổi sáng, quạ không biết từ đâu về đậu đen đặc bờ tả ngạn sông Nhị, quang quác lên đến rách toang màng nhĩ. Trời xuống gần đất và mây xám xà vào đậu trên những vòm cây rũ rượi dưới trận mưa phùn đã kéo lê ròng rã ba ngày. Chính Ngọ, bàn dân ai nấy giật mình nghe thấy một tiếâng nổ như sấm động, sau người hàng phố thì thào với nhau rằng núi Hùng tự nhiên sụp xuống gần hai mươi thước.

Thức lẩn vào đám đông, mắt ngóng lên đài chém, , vết thương trên trán nay đã thành một vết sẹo chạy đâm xuống chân mày, cứ giật lên mỗi lần chàng lo hay phải tập trung suy nghĩ. Lạy trời, Thức thầm nhủ, lạy trời là thoát. Lòng chập chờ hy vọng, Thức nhướng người nhìn, mong không có bóng dáng Dương Quang trong đám tử tù.

Hai ngày sau trận đòn hôm Mai vào thăm, Thức bị chuyển phòng. Khi chia tay, Dương Quang chỉ kịp nhìn Thức bùi ngùi : « ...chú em thoát được thì vào Ðàng Trong, rồi đi xa để học cái tốt người ta mang về mà giúp đời. Nhớ nhé, một là tránh cho bằng được cái học rỗng tuếch, thứ là chớ có sa vào bất cứ khuôn mẫu ép buộc nào, kể cả Quân-Thần, Sư-Môn, Phụ-Tử, Phu-Thê nếu nó là ép buộc. Ðời ta, ta chỉ trọng độc có một cái là tình bạn mà thôi ! ». Từ đó, Thức bặt tin Dương Quang, nhưng mỗi khi nhớ đếùn, Thức lại bồn chồn lẫn đau xót.

Ðám tội phạm bị trói giật cánh khuỷu, xếp hàng bước theo chân nhau, lặng lẽ đi như đám ma chơi sau khi ăn cháo thí lễ cúng cô hồn. Trong đám đông đã có dăm ba tiếng chửi tục và tiếng nức nở kêu oan. Chợt tiếng hát ở đâu đây oang oang lên như lệnh vỡ :

Này con chim cánh đen,

mỏ vàng mày nhọn,

cựa vàng mày sắc.

Cái lồng nhốt mày bằng nan mục nát,

cứ phá cho tan,

rồi bay ra, bay xa...

Nhạc bát âm từ đâu chợt vẳng lên, gần lại, và chỉ trong giây lát ai cũng nghe rõ tiếng sênh tiền. Bụi cát bay mù mù, rồi cờ quạt phần phật rợp kín cả trời, lính tráng rầm rập nện chân trên đê như đi dận đất chống lụt. Một người đàn bà cùng ba đứa con còn nhỏ chạy ào vào ôm lấy chồng lấy cha. Tiếng quát tháo, tiếng đấm đá thình thịch, tiếng chửi, tiếng khóc. Ðàn quạ bay lên lượn qua lượn lại kêu phụ họa với hồi trống cái đã thì thùng dọa nạt. Chập sau, tiếng những người đao phủ rống lên với nhau bài hát trước khi chém đầu như đi hát đúm:

Tiếng loa vừa dậy.

Hồi chiêng đã mau.

Sống chẳng thù nhau.

Chết không oán nhau

Tiếng hát được nhịp theo bằng tiếng rơi bình bịch như tiếng những quả mít cuối mùa lìa cành rụng xuống trong cơn gió dữ.

Khi điệu Nguyễn Quốc Chấn, thủ hạ của Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân, ra chém thì trời tối sầm xuống. Chấn gào lên « Trời không có mắt, triều không có quan, để ta chết oan. Hãy để bút giấy vào tay áo ta cho ta xuống kiện với Diêm Vương » rồi nhất định không chịu quì. Ðao phủ hươi đao, đầu Chấn rơi xuống đất nhưng người vẫn trơ trơ không ngã, phải khiêng ra như người ta khiêng một thân cây cứng nhắc.
Ðó là vụ án Canh Tý được ghi lại trong Biên Niên Lịch Sử Cổ Trung Ðại như sau:

1780-(Canh Tý)

Tháng 9 âm lịch. Cung phi Ðặng Thị Huệ được Trịnh Sâm sủng ái muốn giữ ngôi Chúa cho con là Trịnh Cán. Con trưởng của Sâm là Trịnh Khải mưu cùng Ðàm Xuân Thụ, Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh Bắc, khởi binh giành ngôi Chúa. Việc vỡ lở, Sâm bắt giam Khải và một số người đồng mưu.

Dĩ nhiên ai cũng hiểu Khải còn có tên là Tông, và Lệ là Khản. Không ai nhắc đến vai trò của Huy quận công Hoàng Tế Lý. Không ai lưu ý rằng Thụ được phong Hầu sau vụ án. Và nhất là chẳng có một người nào, cả thời xưa lẫn thời nay, quan tâm đến đám chín mươi bẩy người tội phạm.

Ngày hành hình trong vụ án năm Canh Tý, nước sông Nhị lại thêm một dịp đỏ hơn trước và đàn quạ hôm sau không biết bay về đâu. Cho đến hết đời Tây Sơn, cư dân sống ven sông Nhị thỉnh thoảng lại nghe văng vẳng tiếng hát về những cánh chim. Không biết Dương Quang, họ đồn rằng đó là oan hồn Nguyễn Hữu Cầu hiện về hát khúc « Chim trong lồng » do chính ông trứ tác khi đợi ra pháp trường hơn hai mươi năm về trước.

Tối hôm chém đầu chín mươi bẩy người tội phạm, mặt trăng sợ không dám ló hết ra. Trăng mười sáu mang hình lưỡi liềm cứ lơ lửng giữa trời đe dọa.
Hơn hai trăm năm sau, mặt trăng ấy vẫn chưa tròn.

Chương 3
Nhát gươm ân sủng

Từ lưng đồi nhìn xuống, hai nhánh đê trông hệt như người ngã xoạc cẳng, lưng dựa vào sông Nhị đỏ ngầu mùa nước lớn, đầu gục vào nhánh phụ cuồn cuộn bọt trắng trôi về miệt Thái Bình. Ngay chân đê, quán nước lặng lẽ nép vào triền đất mầu đỏ nâu, nhỏ bé, nhẫn nhục. Lão Thuyết ngồi gật gù, tay mân mê dăm sợi râu bạc thếch, lờ đờ nhìn ra bến thủng thẳng : « Chắc không còn chuyến nào ». Nắng trên sông nhạt dần. Toàn Nhật nâng ly nước chè xanh uống một hơi, mặt có chút đăm chiêu, hàm râu đen nháy quanh hàm phập phồng theo nhịp thở. Nhướng mắt lên nhìn về phía bờ đê Phi Liệt, Nhật thở ra : « Ðợi thêm một lúc xem sao ».

Lão Thuyết lại gạât gù :

- Ừ thì đợi ! Tôi sống trên bến này ngày nào là đợi ngày ấy đấy. Càng đợi lâu, càng sống dai. Các cậu trẻ hay sốt ruột chứ tôi à, tôi sống là đợi ... hà hà. Hai chục năm trước, thuyền bè đến luôn, bến lúc nào cũng tấp nập. Nay thì khác, khác nhiều ...

- …

-Thuyền khách ít vãng lai là vì có lệch Chúa cấm. Với lại, thuyền Hà Lan thuế bến tăng gấp hai mươi lần nên họ cập Hội An. Ðến Phố Hiến chỉ còn thuyền Phù Tang, thuyền Phú Lăng Sa thôi. Nhưng cứ ngày ít dần đi, thậm chí một năm chỉ còn trên dưới hai chục chuyến ...

- Sao vậy cụ ?

- Ấy, khó lắm. Ðược lòng Ðằng Trong thì mất lòng Ðằng Ngoài. Chẳng ai vừa bụng được, cả Nam lẫn Bắc. Rồi trăm thứ tốn kém. Hàng ta về muộn, bốc rỡ chậm, không chất lên thuyền khách ngay. Cứ rề rà, thế là thuế bến tăng, chỉ khách thương là phải xì tiền ra chứ quan nha có lỗ lã gì đâu. Như cậu, hình như chuyến này cậu ra đợi thuyền về là lần thứ năm hay lần thứ sáu thì phải ...

Toàn Nhật uể oải gật đầu. Bốn tháng trước, chàng rời Kinh đến đây với bức thư gửi gấm từ dinh quan Chánh dường Hoàng Tế Lý. Tìm gặp ông Sìn, một người Hoa đến cư ngụ Phố Hiến trên ba mươi năm, chàng ngần ngừ đưa bức thư. Ông Sìn khịt khịt mũi, vỗ vỗ tay chàng, kêu : « Hảo ! hảo ! ». Hai hôm sau, ông ta đưa chàng đến Nhật Bản Thương Hội gặp Koji Mishima.

Koji Mishima khoảng tứ tuần, cao lớn, nghiêm nghị. Với mớ tóc búi ngược ra sau như kéo xếch mắt lên, mặt ông căng thẳng, ngược hẳn lại cung cách khoan thai chậm rãi . Giọng ông nói ê a, kéo dài ra khàn đặc, nửa như hát, nửa như than. Ông bằng lòng. Từ hôm đó, Toàn Nhật dọn về ở một căn phòng phía sau Thương Quán, sát hàng dậu nơi Mishima cư ngụ.

Việc chàng được giao phó là chép lại tất cả sổ sách thương vụ sáu năm nay, kể từ khi Mishima sang phụ trách điều hành Thương Hội. Toàn Nhật làm công việc được giao phó trong ba tuần rồi đưa lên trình Mishima. Ông ta lật ra, lơ đễnh nhìn tập giấy, lẳng lặng gật đầu. Cả tuần lễ sau, ông ta không hỏi han gì, mỗi lần gặp chỉ khẽ nghiêng mình chào Toàn Nhật. Ðợi thêm một tuần, Toàn Nhật lên chào Mishima xin nghỉ, phần vì cuồng chân cuồng tay, phần vì nóng ruột nghe tin Trọng Thức bị bắt bỏ ngục trên Kinh. Mishima khẽ gõ ngón tay xuống mặt bàn hỏi:

- Ông không thích công việc ?

- Việc ông giao đã làm xong, tôi ăn không ngồi rồi hai tuần nay rồi.

- Thì đã sao ? Tôi trả lương cho ông được mà.

- Cám ơn ông. Tôi không dám nhận.

Mishima ề à như thách thức :

- Có việc khác đấy, nhưng khó hơn, đòi hỏi hơn, ông có khả năng không ?

Toàn Nhật ngước mắt lên nhìn dọ hỏi. Mishima lẳng lặng lôi ra một tập giấy đưa Toàn Nhật :

- Làm việc này thì ông phải ký giấy nhận điều kiện với tôi.

Toàn Nhật cúi xuống đọc. Máu rần rật đưa lên làm mặt chàng đỏ dần. Nhìn thẳng vào mặt Mishima, Toàn Nhật gặng nói chậm rãi :

- Hao hụt hai lạng vàng, chém một tay. Sáu lạng, chém hai tay. Còn trên mười lạng, chém đầu.

Mishima gật đầu.

- Ðã nhận làm, không bao giờ có quyền tự được nghỉ. Nghĩa là suốt cả một đời ?

Mishima lại gật đầu.

Toàn Nhật ngẫm nghĩ, cười nhạt, hỏi :

- Ông cho người chúng tôi là đám ăn cắp, lại sẵn sàng làm nô lệ ?

Mishima chỉ khẽ lắc đầu, vẫn không nói năng gì cả. Nhật gặng :

- Ông đã chém ai chưa ?

- Tôi đã chém bốn lần, hai lần là chém tay, còn hai lần kia phải chém đầu.

Toàn Nhật gằn giọng :

- Hừ ! Một mạng người giá là mười lạng vàng. Ông tính toán thế nào mà ra cái số ấy ?

Mishima chậm rãi :

- Thật ra chỉ ăn cắp một chỉ vàng cũng đã đáng chém đầu. Tôi không hề nghĩ đến cách đánh giá một mạng
người như người ta đánh giá một mặt hàng bày ở chợ. Tại sao mười lạng ? Có lẽ vì tôi già rồi, bớt đi cứng rắn chăng ? Hay có lẽ vì tôi không thểà không ứng xử cho phù hợp với cái xã hội tôi đang sống trong đó ? Phần đối với tôi, nếu tôi lấy của ai đó một chỉ vàng mà không được sự ưng thuận hay không có gì để đền đáp, chính tôi sẽ tự chém tôi, chẳng cần ai khác !

Toàn Nhật lấy bút, chấm mực, thảo nhanh : « ... hao hụt một chỉ vàng là chấp nhận chém đầu, nhưng có thể nghỉ việc bất cứ lúc nào ». Ðưa tờ giấy do tay mình thủ bút, Toàn Nhật đứng lên , hỏi : « Có người ăn cắp vì nghèo đói, có chém không ? ».

Mishima gật gù, ề à :

- Những ai nhận làm với điều kiện tôi đặt đều có thù lao hệt như tôi. Với lợi tức đó, họ không phải là những người nghèo đói ! Còn như điều kiện ông vừa đề nghị, để tôi nghĩ lại xem. Xin ông cứ ở lại thêm vài ngày, đi chơi đây đó, tôi sẽ trả lời ...

Như lệ thường, Toàn Nhật dậy sớm, mỗi sáng bỏ ra ba khắc múa gươm. Sau đó, chàng thả bộ đi vào Phố Hiến, đôi khi ghé lại chào hỏi ông Sìn, chủ một tiệm thuốc bắc. Phố Hiến không phồn hoa như trên Kinh, nhưng đã mang dáng dấp thị thành. Ngoài cư dân địa phương, số người ngoại quốc có thời đã chiếm đến một phần ba. Người Tàu quây quần vùng phố Khách. Người Nhạât xây Nihon-machi phía đông. Còn lại, đa số người phương Tây tụ họp quanh Nhà Thờ. Hiện nay, người Hà Lan gần như không còn một ai. Số ở lại gồm dăm người giáo sĩ dòng Tên, phần lớn là người Bồ đào Nha và người Pha lang Sa. Ngoài ra, có khoảng trên dưới năm chục thương nhân, thường là đi lại buôn bán cho công ty Hà Lan Ðông-Ấn. Họ quanh quẩn trong miệt Hưng Yên, và phải đặc biệt lắm mới được phép trẩy Kinh. Bám rễ xung quanh đám thương dân này là một số người bản địa làm công việc thông dịch và trung gian buôn bán. Về phần người Nhật, số thuyền buôn được chính quyền Nhật Bakufu cấp cho châu ấn ngày càng ít vì chủ trương bế quan tỏa cảng của họ. Giao dịch với Chúa đàng ngoài là đoàn thuyền thuộc Suminokori Ryoi, chủ nhân của Koji Mishima.
Lang thang đến khi mặt trời lên gần đỉnh ngọn tre, Toàn Nhật ghé vào hiệu thuốc ông Sìn. «Hảo, hảo », ông ta vồ vập, miệng cười lộ ra hàm răng vàng xỉn khói thuốc. Nghe Nhật kể về điều kiện công việc, ông ta lại xì xào «hảo, hảo » và thì thầm « Cái chuyện chém đầu có thật, nên ông Koji không được phép rời Phố Hiến về Nhật Bản từ bốn năm nay ». Ông kết luận : « ... Cái người gì mà ghê ghê quá » và khuyên bảo « Cậu chớ làm nữa, nó chém thật đấy !» . Toàn Nhật chỉ cười rồi cáo lui.

Ghé vào hàng quán ăn xong một bụng cơm, Toàn Nhật lại lững thững theo chân đê đi ngược lên miệt Thái Bình. Trời tháng tám oi, cỏ cây cũng lấm tấm rịn mồ hôi. Tiếng ve khi rỉ rả, khi chói chan, hòa tấu một khúc trường ca tưởng như vô thủy vô chung, mơ hồ chở về những mộng mị chập chờn.

Nhật nằm xuống thảm cỏ cạnh miếu Ba Cô, mắt nửa nhắm nửa mở, thèm một cơn gió, mơ mơ màng màng. Ðầu Nhật nặng trùng xuống. Bỗng đâu đó văng vẳng tiếng người đàn bà. Nhật ngước mắt nhìn. Trên thềm, trong một góc trắng đục, như có ai ngồi, lưng quay về phía sông, tay cầm quạt nhẹ nhàng phẩy gió.

- Con ngủ đi, mẹ quạt cho mát ...

- Mẹ, mẹ đấy à ? .

- Ừ, mẹ đây, mẹ về với con một lát.Ðã bao nhiêu năm !

- Sao mẹ bỏ con đi ? .

- Nào mẹ có muốn thế ...

- Mẹ đừng đi nữa, mẹ ơi, mẹ ...

Nhật hét lên, trợn mắt, nhìn theo cái bóng trắng mờ dần rồi mất hút trong ánh nắng vàng cánh ong. Nhật ngẩn ngơ, lại nằm xuống, và nhớ người mẹ nuôi trên trại Bùi Phong.

Năm Nhật được mười sáu, Ðặng thị nói : « ... Con về nhà này đã khôn lớn rồi, không đẻ con nhưng mợ thương con như con đẻ ». Ðặng thị ngần ngừ, rồi nhỏ nhẹ « ... còn về gốc gác, để mợ kể ... ».

Làm Huấn Ðạo được bốn năm ở Anh Ðô, Nguyễn Thiếp tưởng đã yên phận, nào ngờ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm lại vừa được sắc phong Tả Thừa Tướng dưới đời chúa Trịnh Doanh. Là thầy dậy Thiếp, chính Xuân quận công ép buộc học trò mình nhậm quan, sau đó lại rắp tâm đẩy Nguyễn dấn sâu vào bước hoạn lộ. Hai tháng sau đó, Thiếp nhận được tuyên chỉ bổ nhiệm mình làm Tri Huyện Thanh Chương. Tiếng thếù, nhưng Thiếp thu xếp để lui về trại Bùi Phong, ở cái thế nửa xử nửa xuất.

Sáu năm sau, tức là vào năm 1768, Nguyễn Nghiễm mất. Vào Tiên Ðiền chịu tang thầy, Thiếp thấy cái lẽ xử không còn lý do gì tồn tại, âm thầm quyết định từ quan để lui hẳn về cuộc sống ẩn dật. Trên đường từ Tiên Ðiền về Nguyệt Ao, khi đi qua Phú Thạch, Thiếp và Ðặng- thị ngừng chân ghé vào một cái quán ven đường uống bát nước. Lúc ấy, gió nồm đã bắt đầu ùa vào hai miền Thanh Nghệ. Nắng gắt đến sáng trắng những thửa mạ cằn khô trơ đất muối. Trong quán chỉ có một thằng bé chạc chín mười tuổi, mắt đen lay láy, đang cặm cụi xoài người tô tô vẽ vẽ. Rót xong hai bát nước chè xanh, nó lại lẳng lặng quay về góc cái trõng nằm sau chiếc bàn có bầy một lọ kẹo lạc, một cái ấm chè, một nắm lạc rang và dăm củ khoai luộc.
Bàn thêm về chuyện xin từ quan,Thiếp nhếch mép nói như một lời than « Trống đánh canh ba, gà gáy canh năm, chó má tru mõm sủa ». Nghe thằng bé bật lên cười, Thiếp quay sang nhìn. Nhẹ nhàng, Thiếp hỏi:

- Sao cháu lại cười ? Câu đối đấy, đối được không ?

Thằng bé đỏ mặt bẽn lẽn. Thiếp khuyến khích:

- Cháu cứ đối đi, nếu hay ta sẽ thưởng !

Thằng bé cau mày ngẫm nghĩ, rồi lí nhí :

- Mõ gõ mười phương, chuông vang tám hướng, người ngợm ngoác miệng cười.

Ngạc nhiên, Thiếp thích thú nhìn kỹ thằng bé, rồi hỏi:

- Cháu học hành với ai ?

Thằng bé trả lời là nó học với ông ngoại. Bạo dạn hơn, nó nói:

- Ông ngoại bảo trò chơi chữ nghĩa thật chẳng có gì khó. Ðấy, vế trên có trống thì vế dưới đối phải là mõ,
trên chó má thì dưới phải người ngợm, rồi trên tru mõm sủa thì dưới là ngoác miệâng cười...

- Thế thì cái gì mới khó ?

- Ông cháu bảo đạo mới khó, lý mới khó, ngoài ra thì chỉ toàn phù phiếm cả mà thôi.

Thiếp đưa tay lên vân vê chòm râu đang ngả bạc :

- Thế cháu hiểu vế trên thế nào mà đối vế dưới như vậy ?

- Vế trên ư...

Thằng bé ngần ngừ, mắt nhìn xuống đất, rồi tiếp :

- ...cháu không rõ. Còn vế dưới thì là vì mỗi tháng cứ đúng ngày rằm cháu lên chùa giúp sư cụ, cháu thấy các bà đi lễ xong ai cũng tươi lên, cười cười nói nói...Thế thưa ông vế trên nghĩa là gì ?

Thiếp chạnh nghĩ đến thế sự, ngậm ngùi :

- Ðấy là cái cảnh Vua chẳng ra Vua, Tôi chẳng ra Tôi, trống đánh suôi kèn thổi ngược. Quân bất vi quân, thần bất vi thần nên lũ tiểu nhân được dịp thao túng mà chẳng ai làm được gì !

Nói đến đấy thì một cụ già chống gậy bước vào, vẻ ngạc nhiên, chào khách :

- Xin kính chào quan huyện.

Chủ khách thăm hỏi nhau, Thiếp mới biết ông đây họ Võ ở Thạch Hà, xưa vốn có dậy học song không hiểu lẽ gì bỗng dưng bỏ làng đi, bây giờ sinh sống qua ngày bằng quán nước ven đường và thỉnh thoảng viết phúng viết điếu cho dân làng lân cận.

Thiếp khen thằng bé và hỏi tên. Nó lấy họ Võ là họ ngoại.

Khi về Ðặng-thị ứa nước mắt nhớ đến Thúc Khải, đứa con lưu lạc đã xô giạt với gia đình họ Hà vào Ðàng Trong gần chục năm nay. Mấy tháng sau, khi nghe tin ông thằng bé bị bạo bệnh rồi qua đời, Ðặng-thị bàn với Thiếp mang nó về nuôi. Ðến quán cũ thì thằng bé đã theo một bà cô về làng. Ðặng-thị lại lặn lội đi tìm. Lúc nói chuyện với bà cô, Ðặng-thị mới nghe rằng mẹ thằng bé xưa chửa hoang. Cô ta lậy bố xin giữ cái bào thai vô tội. Ông bố xấu hổ đóng cửa không dậy học nữa, cắên răng nghe những lời đàm tiếu mỉa mai. Sinh đẻ xong xuôi, cô ta viết lại một lời tuyệt mệnh, xin bố tha lỗi, và xin đăït tên con là Toàn Nhật thể theo lời ước hẹn với người đàn ông nay đã cao bay xa chạy. Bốn ngày sau, người ta vớt được xác cô giạt vào bờ sông Lam. Kể đến đấy, bà cô thằng bé ghé vào tai Ðặng-thị thì thầm. Thì ra nghe đồn bố nó họ Hoàng, có thể là Hoàng đăng Bảo thi văn đỗ Hương cống năm Ất Dậu, rồi thi võ đỗ Tạo sĩ năm Bính Tí. Mà nghe đâu lại cũng có thể là chính Quận Việp, chú của Ðăng Bảo, lúc ấy là quan Hiệp Trấn xứ Nghệ.

Quận Việp thời ấy vô cùng lừng lẫy. Hai vùng Thanh-Nghệ liên tiếp được mùa mấy năm liền nên bàn dân thiên hạ không còn ca thán. Việp sai Bảo đi đánh dẹp giặc giã khắp nơi, lần nào cũng đắc thắng. Bảo lại khôn ngoan dùng người rất đúng chỗ, chiêu hiền tập sĩ khắp nơi, thu phục được cả Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống khi mới mười sáu tuổi, giao cho Chỉnh toàn bộ thủy quân, coi đội Tiền Cơ ở Nghệ An. Giặc biển từ đấy hết hẳn hoành hành, và Chỉnh nổi tiếng là con cắt nước hai trấn Thanh-Nghệ. Ðăng Bảo, có nghĩa là lên ngôi, sinh năm Hợi. Trong kinh, người ta kháo nhau rằng «một con lợn đuổi đàn dê », ý ám chỉ Ðăng Bảo sẽ truất Trịnh Doanh và con là thế tử Sâm vì hai cha con Chúa đều tuổi Mùi. Ðể tránh tiếng xì xào, Bảo tự đổi tên thành Tế Lý. Nghe lời tâu của chính thế tử, năm Toàn Nhật sinh ra cũng là năm Ðăng Bảo được chúa Trịnh Doanh gả cho đứa con gái thứ mười một, tức là công chúa Ngọc Tĩnh, để thưởng công chú cháu quận Việp đã đánh đuổi được giặc Lê duy Mật bật khỏi Nghệ An phải lùi về mãi tận Trấn Ninh. Tiếng là thưởng công, thực ra Sâm nhờ em gái mình dò xét Bảo.

Lúc nghe Ðặng thị muốn xin Toàn Nhật về nuôi, bà cô nước mắt ngắn nước mắt dài kêu « Ðứa cháu này, bà huyện ơi, tội nghiệp, tôi thương nó lắm ! ». Tình thương đó nhạt dần, và khi Ðặng thị giúi thêm hai quan tiền nữa thì hình như đã lắng vợi hẳn xuống.

Toàn Nhật rời miếu Ba Cô vào lúc trăng vừa lên. Cơn nóng hầm hập ban trưa dịu xuống, không khí nhẹ hẳn đi mặc dầu gió vẫn lặng. Về đến bên hàng dậu, Nhật giật mình nghe những tiếng hét vang lên từng chập. Vườn chuối bên kia có tiếng bước chân thình thịch. Nhìn vào, Koji bất động dưới ánh trăng, mắt nhắm nghiền. Chợt ba lằn quang vung lên trong một chớp mắt, kèm theo là tiếng hét vừa chắc vừa gọn như từ trong bụng phát ra. Cứ như thế, những tiếng hét vang lên, xé cái tịch mịch ghê rợn dưới ánh trăng xanh nhợt. Bỗng Koji cất tiếng :

- Mời ông vào đây. Tôi cũng đã xem ông sáng sáng múa kiếm ...

Toàn Nhật lẳng lặng vào vườn, nhìn Koji tươi cười, khom người chào mình. Khác hẳn với cung cách chỉ khẽ nghiêng đầu lúc trước, cách chào của Koji nay không còn kiểu bề trên kênh kiệu. Koji trầm giọng, ê a :

- Ông xem, tôi chỉ biết có ba đường kiếm. Phạt chéo bên trái, rồi bên phải và một đường bổ dọc ...

Toàn Nhật thích thú :

- Vâng, nhưng nhanh lắm. Lại chắc, nếu đánh trước thì kẻ địch khó mà chống đỡ nổi.

Koji mỉm cười :

- Không có chuyện đánh trước, đánh sau ... Cũng không có cái gì gọi là kẻ địch.

- …

- Vâng, chỉ có ta và kiếm. Lúc rút ra khỏi vỏ thì thành một. Và đối tượng cũng là ta, chứ không ai khác nên làm gì có địch !

Trước vẻ ngẩn ngơ của Toàn Nhật, Koji thân mật vỗ vai, kéo ra sau một cây chuối cao bằng đầu người, nói
:

- Ông đứng đây, rồi bất ngờ làm một cử động thôi ...

Koji quay về chỗ trước cây chuối, lại đứng bất động, mắt nghiêm nghị nhìn nhìn vào khoảng không trước mặt, kiếm vẫn ở trong vỏ giắt sau lưng. Một phút, rồi hai phút ... Toàn Nhật không chịu nổi nữa, vừa nhích chân thì mắt hoa lên ba lằn quang như ánh chớp, đầu như tê liệt trước tiếng hét chát chúa. Ngửng lên nhìn, Koji đã trở về trạng thái cũ, và kiếm tra lại vào chiếc bao dắt sau lưng. Toàn Nhật thở phào sửng sốt. Koji lại bảo :

- Ông lấy tay đẩy vào thân cây chuối mà xem.

Cây chuối mới nhìn vẫn vậy, bất động, tàu lá chỉ hơi rung rung. Ðẩy vào, bốn mảnh thân cây đổ xuống đất, tiếng rơi bình bịch. Cây chuối đã mất đầu, rồi mất nửa mình, và thân bị chẻ hai. Toàn Nhật lùi một bước, hoảng sợ, đầu gối nhũn ra, ngỡ ngàng chẳng biết là hư hay thực. Koji cất tiếng :

- Phép đánh kiếm của Phù Tang không múa như phép đánh kiếm của lục địa. Múa là để làm hoa mắt kẻ địch, dùng mẹo đánh vào chỗ sơ hở. Còn chúng tôi, chúng tôi đánh là thể hiện sự toàn mỹ và đồng nhất giữa lý trí với hành động của người cầm kiếm. Ðích chính là ở Ta, còn kẻ địch chỉ là đối tượng để thể hiện cái Ta nên kẻ địch là phương tiện, có hay không, không quan trọng ... Kiếm pháp các ông nhằm triệt tiêu đối tượng. Ðối tượng là đích, vì thế dùng mưu mẹo lừa cho đối tượng lầm lẫn để thủ thắng. Một đằng, kiếm và người là Một. Một đằng, người là chủ, kiếm là phương tiện và đặt kẻ địch thành đối tượng. Vâng, khác biệt là như thế đấy ...

Toàn Nhật nhìn chòng chọc vào Koji, ngạc nhiên hỏi :

- Khác biệt thế thì tác động thế nào ?

Koji cười hồn nhiên :

- Thắng và thua, sống và chết, không còn gì khác nhau nữa. Chỉ còn độc một cái là cái Ta được thể hiện mãn mỹ ở đúng cái giới hạn sẵn có của nó, thế thôi !

Vỗ vai Toàn Nhật, Koji đổi giọng :

- Nếu ông muốn, ta còn bàn nhiều về kiếm. Còn công việc, cái điều kiện ông đặt cho tôi, tôi đã nghĩ kỹ.
Ngưng lại rồi chặc lưỡi, Koji tiếp :

- Mà này, ông có thấy ở đâu cái chuyện người làm đặt điều kiện cho chủ không nhỉ ? Chắc là không đâu !
Tôi nhận điều kiện của ông, nói thế, nghĩa là không còn ai là chủ và ai là người làm công ... Kể từ nay,
chúng ta là bằng hữu.

Toàn Nhật lùi lại, bàng hoàng trước thay đổi đột ngột không ngờ trước, mồm lẩm nhẩm :

- Không dám, không dám !

- Bằng hữu ạ, Koji này đã làm gì để không xứng đáng với tình bạn của anh ?

- ...

- Và một ngày nào đó, tôi sẽ cầu xin bạn một ân sủng. Ðổi lại, tôi sẽ truyền hết sở học về cung kiếm của tôi cho bạn.

- Ân sủng ?

- Vâng, ân sủng. Tôi nói ngay : ân sủng này là cho tôi, và không hề đụng chạm đến một ai khác, bất cứ ở phương diện gì !

Theo lời mời của Koji, Toàn Nhật dọn sang tư dinh, cư ngụ ở trái nhà phía tay phải, căn nhà chính giữa là nơi Koji ở, bên trái có xây một trà thất vuông vắn, mái như mái tháp. Từ trà thất nhìn ra sau là một cái hồ rộng ba thước ta, thả sen và nuôi những con cá đỏ chót to bằng cá trê. Chiều chiều, Koji ra đứng dựa trên chiếc cầu nhỏ vắt ngang hồ, cho cá ăn, miệng ề à hát :

Furuike ya ( trong ao xưa )

Kawazu tobikomu ( con nhái nhẩy vào )

mizu no oto ( tiếng nước khua )

Công việc giao phó cho Toàn Nhật tương đối nhàn nhã. Nhật tiếp nhận trầm hương đến từ Thanh, Nghệ, lụa từ Hà Ðông, gấm từ Kinh Bắc, sừng hươu nai và xương hổ từ Sơn Tây, Cao Bằng. Koji Mishima kiểm tra chất lượng xong, cho phép bốc lên thuyền để chở về Okinawa, một hòn đảo cực Nam đất Phù Tang. Ðổi lại là súng đạn và đao kiếm. Nhật lại kiểm kê hàng Phù Tang, lên danh sách, chuyển giá thỏa thuận ra vàng hoặc bạc, và trách nhiệm chuyển hàng về Thăng Long cho quan Chánh dường Hoàng Tế Lý.

Tối tối, hai người lại ra luyện kiếm. Nơi Koji dạy Toàn Nhật nằm sau trà thất. Họ ngồi đối mặt vào nhau, mắt nhắm hờ, ở tư thế thiền tọa.Cây đào Phù Tang rực lên cháy hồng một khoảnh không gian ven hồ nước lóng lánh sáng. Gió khuya gây gây lạnh. Trời đất tấu khúc đêm về, âm thầm những niềm hạnh phúc mỏng mảnh gió tháng chạp. Thỉnh thoảng, cá quẫy nước lục bục điểm vào tiếng ếch ương thảng thốt kêu dưới những tàn lá sen ven hồ. Mùa này, sen đã úa cả, không sao tìm đâu ra chút hương thoang thoảng lẫn mùi bùn tanh. Ở đầu gió, không khí lùa mùi thơm ngan ngát từ hàng cây dạ lan mọc cạnh tường nhà thoảng lại.
Koji cất tiếng, tay chỉ vào đầu :

- Nhanh không phải ở tay nhanh ! Nhanh là ở đây. Cái nhanh đó từ phản xạ. Một phản xạ không điều kiện.
Ðến độ đó, thực ra, phản xạ của cái đầu là cái lắng đọng từ sự chín chắn.

Mắt xa vời, trống không, giọng không thấp không cao, Koji ề à từng chữ :

- Sống kiếm là đường đi vào cái đích. Là đạo. Không rút kiếm ra nếu không cần. Ðã rút, nhập vào cái đích, thành Một. Ðầu, tay, kiếm và cái đích thành một thể bất phân nằm trên sợi tơ ranh giới căng ngang để nối liền sống - chết.

Koji đứng lên, chân vừa rùn bước là tay lóe ra một lằn quang ở trên chụp xuống, nhanh như ánh chớp dọc. Nhìn lại, Koji đã trở lại thế đứng bình thường, kiếm không biết lúc nào lại tra lại trong bao giắt chéo về phía trái theo chiều sống lưng. Nắm bàn tay Toàn Nhật đặt vào đốc kiếm, sửa lại thế đứng, Koji bảo :

- Tất cả là hơi thở. Rút, hơi ngưng. Chém, thở ra, khí thừa trụ xuống bụng dưới. Bây giờ anh tập đi. Rút và chém một trăm lần.

Nét mặt Nhật nghiêm lại, mắt ánh lên. Cứ như thế, Nhật rút và chém. Một lúc sau, Koji ra dấu cho Nhật ngưng kiếm, nhìn Nhật rồi nhỏ nhẹ :

- Anh vừa chết đủ một trăm lần đấy. Không đủ nhanh và chắc. Hơi thở từ rút đến chém bị đứt đoạn. Anh biết tại sao không?

Nhật lắc đầu.

- Khi anh rút kiếm, mắt anh có ánh lên thứ ánh sáng lóe đỏ màu căm hờn ! Chính sự căm hờn làm cái đầu không liền lạc với cái tay. Anh phải từ từ rũ bỏ sự căm hờn đó thì anh mới đạt được. Ba mươi năm nay, ngày nào tôi cũng rút và chém đúng trăm lần. Cả đời, tôi độc có ba đường gươm, chỉ thuần thành sau khi dứt bỏ được mọi vọng niệm ...

Nhật đưa giải áo lên lau mồ hôi trán. Ta căm hờn ư ? Căm hờn cái gì ? Ai ? Không biết. Nhưng có cái gì đó thúc giục, ấm ức. Nó như ở lặn trong lòng, vô lý vô lẽ, ùa ra để trừng phạt, phá phách không chủ đích.
Koji đến bên Nhật, nắm vai, đẩy Nhật về phía ven hồ :

- Sự căm hờn giảm ở đường gươm thứ ba. Ðường gươm đó nhanh hơn ...Này bạn, có gì bạn cứ nói, sao lại để trong lòng ?

- . . .

- Có lẽ chính bạn, bạn cũng chẳng biết nỗi căm hờn đó từ đâu đến, ở đâu ra ! Nó là Karma, nghiệp chướng. Cũng có lẽ, may ra thì kiếm đạo sẽ giải cái nghiệp ấy. Ðường gươm thứ ba của bạn nhanh hơn có nghĩa là nghiệp của bạn nhẹ đi...

Cất tiếng cười ha hả, Koji lại ê a hát, giọng khàn đặc nghe đặc quánh một đêm sáng trăng.

- Hẳn mùa xuân năm nay cũng đến sớm hơn.

Koji vui miệng kêu lên, mặc nét đăm chiêu vờn trên đôi mắt Toàn Nhật trũng sâu bóng tối.

« Quan Chánh dường Hoàng Tế Lý đến Phố Hiến hẳn không phải là chuyện thường » , ông Sìn vừa nói vừa tiếp tục gẩy bàn tính nghe lách cách :

- Cậu biết không, trước nay chỉ có công tử Ðăng Khoa xuống xét việc quan thôi, chắc lần này có chuyện quan trọng đấy.

Toàn Nhật nghe lơ đễnh, nhìn ra sông, hỏi :

- Chuyện gì ? Ông có đoán ra không ?

- Không, nhưng Quan Chánh muốn gặp cậu ngay. Ðúng giờ Tị ngày mai, cậu đến dinh quan huyện như ước
hẹn, qua đây đi cùng với tôi cho vui.

Toàn Nhật ra khỏi hiệu thuốc, ngược phố Khách rồi tách về phía tây, lững thững đi về phía khu Nhà Thờ tìm Trọng Thức.

Sau khi được thả, Thức còn nấn ná ở Thăng Long ít lâu. Nguyễn Thiếp giục mãi, Thức mới rời đi Phố Hiến độ đã hơn tháng nay. Nhật đã nghe đủ chuyện Kinh Kỳ, từ cái âm mưu nhà Chúa phế Tông lập Cán, cho đến chuyện Tế Lý o ép phu tử đồng lòng việc soán ngôi vua bằng thủ đoạn lừa bỏ Thức vào ngục. Nghe Nhật báo rằng Tế Lý mai sẽ xuống Phố Hiến, Thức cười nhạt :

- Thế lực hắn vậy đã đủ chắc rồi mới bỏ Kinh mà đi được ! Nhưng có chuyện gì hắn phải đến đây ?

- . . .

- Dẫu sao thì Nhật cũng cứ phải gặp hắn. Và chớ quên là thấy rắn mà không đập được đầu thì tránh cho xa.

Nhật gượng cười, lơ đễnh :

- Công việc anh làm đến đâu rồi ?

Thức đứng dậy lôi từ hộc tủ một thếp có đâu đến cả trăm tờ giấy được xếp gọn ghẽ. Nhật cầm lên chăm chú lật ra từng tờ : một phần quyển từ điển Việt - Pha Lang Sa- La-tinh đã được bổ sung và tra cứu lại bằng công sức của Thức và giáo sĩ Charles-Antoine Sieyès. Thức hân hoan nói như reo :

- Dùng mẫu tự La-tinh để phân âm tiếng ta không khó khăn gì ! Duy có một số chữ chưa chỉnh. Như Ðức Chúa Trời, ngày trước họ viết thế nào mà đọc ra là Ðức Chúa Blời ...

Thức mơ màng, nói tiếp :

- Nhưng đó là tiểu tiết. Nếu dùng mẫu tự này, chỉ cần dạy ba tháng là một đứa bé lên sáu có thể đọc thông thạo dễ dàng. Như vậy, cái đống kinh sách phải học để đi thi thành ông tú, ông cử thì chỉ hai đến ba năm là ai cũng làu làu ... Ha ha, bút sắt sẽ thay bút lông để đuổi cho sạch giặc dốt !

Vừa lúc ấy, một người cao lớn bước vào, miệng lơ lớ nói : « Chào các ông ». Charles-Antoine Sieyès trạc trung niên, râu quai nón, lưng hơi khòm nhưng dáng nhanh nhẹ. Nghe Toàn Nhật hỏi thăm, ông ta cười : « Giê-su-ma lậy Chúa tôi, bình an, bình an ! » và thân mật nắm tay Thức, nói ngọng nghịu :

- Ông có lý, chuyển âm La-tinh sang tiếng Nôm phải chính xác, không nên lẫn lộn x với s, d với z. Chẳng hạn như xa với sa ... nghĩa khác hẳn. Nhưng thôi, trưa mai tôi không làm việc với ông được vì phải lên Huyện chầu quan lớn từ Kinh xuống ...

Nét lo lắng, Charles-Antoine thì thào : « Không biết có chuyện gì ? Cầu xin Ðức Mẹ ban phép lành cho giáo hữu ! ».

Charles-Antoine không rơi vào trường hợp một giáo sĩ bình thường. Ông ta vốn là anh em song sanh của Emmanuel Sieyès, một nhân vật khá lạ lùng của đám trí thức ở Paris, thường lui tới nhà dòng Jacobin phố St-Honoré. Mặc dầu xuất thân là quí tộc, Emmanuel học trong Dòng Tên, trở thành phó linh mục ở Chartre, nhưng lại thân cận với những người Hội Thánh cho là bất hảo, mỗi tối thứ tư là hội họp, rồi cùng nhau in những tờ báo truyền tay. Cảnh sát Pha Lang Sa được lệnh truy nã Emmanuel, nhưng lại bắt nhầm Charles-Antoine vì hình dáng hai người giống hệt nhau. Lúc đó Charles-Antoine vừa được thụ phong linh mục. Vị giám mục nhà thờ Ðức Bà can thiệp, với điều kiện Charles-Antoine xung vào Hội Truyền Giáo Paris đểù đi giảng đạo cho đám con chiên chưa được khai hóa ở tít tắpViễn Ðông. Ngài lạnh lùng kết luận : «Có gì đâu mà oan, thầy chính là Emmanuel, mặc áo nhà dòng và mang tên Charles-Antoine. Ðây, cảnh sát đưa trả nhà thờ sách vở của thầy. Có đủ loại sách Giáo Hội đã ra lệnh cấm. Sách của Rousseau, sách của Voltaire,
sách của Montesquieu. Và cả những tờ giấy truyền đơn của đám vô thần bất hảo ở phố St-Honoré ».

Bứt rứt nhìn Thức, Charles-Antoine tỏ vẻ lo ngại. Kinh nghiệm cho ông biết là gập quan càng to thì tai họa càng lớn. Dạo hai năm trở lại, giáo hữu bị đẩy vào thế cùng, có lúc đã định trang bị giáo mác để tự vệ. Biết rằng như thế là rơi vào cái bẫy để cho Triều đình đàn áp bằng võ lực, ông đã phải viện một trong mười điều nghiêm cấm của Thiên Chúa, tuyệt đối không cho giáo hữu tự vũ trang, nếu trái lời có thể bị rút phép thông công.

Toàn Nhật cảm thấy ngài ngại, chắp tay cáo từ, nói với lại với Thức :

- Koji nhắn mời anh đến dùng trà ngày tròn trăng, nhớ nhé !

Hôm sau, Nhật lên dinh quan Huyện . Vừa vào cửa, Nhật thoáng thấy bóng lão Thuyết chủ chiếc quán ven sông lẩn nhanh ra sau, tự nhủ thầm là người làm cho Viện Nội Mật quả thật len lỏi khắp nơi.

Hoàng Tế Lý vẫõy vào. Nhật chắp tay thi lễ, rồi đứng dưới trướng đợi như dăm ba người mặt quen có, mặt lạ có. Lý đứng dậy, tươi cười nắm tay Nhật, kéo riêng ra cửa sổ ở cuối phòng, miệng bảo :

- Thật là chóng, thế mà đã mấy tháng cháu rời Kinh rồi.

Tế Lý báo Nhật biết tin phu tử sẽ ăn Tết ở Thăng Long, sau mới về Nghệ An, nhưng tuyệt nhiên không đả động gì đến Trọng Thức. Cuối cùng, Tế Lý dặn Nhật về nhắn Mishima cứ đợi ở nhà, khi hết việc trên huyện, đích thân Lý sẽ tới thăm ngày mai.

Ôm vai Nhật đưa ra cửa, Lý bảo :

- ... ngày nào đó về Kinh, ta sẽ đích thân dạy cho vài đường kiếm họ Hoàng.

Nhìn xoáy vào mắt Nhật, Lý rành rọt :

- Kiếm gia truyền không bao giờ ai lại dạy cho người dưng. Cháu phải biết, không như kiếm cách của Phù Tang đâu !

Nhật ớn lạnh xương sống, ngay việc tập kiếm với Mishima cũng đã đến tai Lý. Mọi việc lớn nhỏ ở Phố Hiến không phải là qua được cặp mắt và tầm tay của Viện Nội Mật.

Khi chia tay, Toàn Nhật cúi đầu vái Lý dưới thềm. Ðột nhiên, mặt chàng rừng rực nóng. Hít không khí vào đầy lồng ngưc, Nhật chậm rãi thở ra, nhưng mắt chợt thấp thoáng bóng người đàn bà ở miếu Ba Cô, lưng quay về sông Nhị, tay phe phẩy gió.

Nhật về thẳng nhà để báo tin. Koji đặt chén nước uống xuống bàn, tay mân mê chiếc quạt. Ðẩy chiếc mành cửa chạy dọc, vuông sân trải sỏi trắng hiện ra, trống trải, mông lung, lờ mờ những nếp gợn đều đặn đồng tâm như gợn nước. Ở góc sân, phía mặt trời mọc, hòn đá tảng màu xanh ngắt trơ vơ.

Koji trầm ngâm, quay sang Toàn Nhật hỏi :

- Quan Chánh dường không dặn giờ nào ?

- Không.

- Bằng hữu, Koji nhăn mặt, chúng ta phải tiếp ngài cho dúng phép tắc và nghi lễ Nhật Bản.

Dặn dò Nhật ra lệnh cho gia nhân đốt đèn lồng lên, Koji lại bắt tất cả mọi người phải mặc trang phục đại lễ.
Ngoài ra, Koji bắt tìm ngay bốn mươi chín con bồ câu trắng để khi quan đến, thả cho bồ câu chân buộc nhiễu bảy sắc bay lên.

Koji vỗ vai Nhật, mỉm cười, hỏi thẳng :

- Sáu năm qua, ai làm với tôi đều bí mật báo công việc về Kinh. Riêng bằng hữu là không phải làm chuyện đó, sao lại vậy ?

Thấy Nhật ngơ ngác, Koji xuề xòa tiếp :

- Nhưng nào có quan trọng gì ! Quan Chánh dường đến tận đây thì có lẽ chúng ta sắp phải chia tay. Có
hợp, ắt có tan. Bạn hãy nhìn mây trời ...

Toàn Nhật sửng sốt. Sao ? Tại sao ? Gió mỗi lúc một nhanh lên. Trên trời mây vỡ thành những con chim ùa
ra vỗ cánh trôi đi tan tác. Chàng quay lại, tay nắm lấy Koji, hốt hoảng :

- Tôi không hiểu ?

Koji đứng lên, cười nghiêm nghị, rồi thoắt ra cửa, mồm gọi đám gia nhân sửa soạn công việc tiếp đón khách nhà quan.

Tối hôm ấy, Koji bận xét lại sổ sách, sột soạt đến khuya. Toàn Nhật tập kiếm một mình, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng hát khàn đặc, ê a vẳng lại.

Xế chiều ngày hôm sau, khi mặt trời mới chếch về tây, tiếng chân ngựa rầm rập. Koji hét cho gia nhân mở rộng hai cánh cổng chính. Những con bồ câu trắng chân buộc giải nhiễu bảy sắc đập cánh bay lên. Tế Lý oai vệ bước vào, đi ngay sau là Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh được điều từ Duyên Hải về Phố Hiến, mang chiến thuyền đến đón Lý đưa về Kinh bằng đường thủy. Koji khom người đưa Lý lên ngồi, rồi quay về quì bên cạnh Toàn Nhật, xử sự theo phong tục Nhật Bản của kẻ bề dưới đối với người trên. Tế Lý yên vị, tay rút ra một cuộn giấy, lẳng lặng đọc tuyên chỉ do chính chúa Trịnh Sâm truyền :

« Năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi mốt. Hạ chỉ giáng phong kiều nhân Koji Mishima, người đất Phù Tang, là Ðông Ngoại Hầu, hàm nhất phẩm, và truyền cho về chầu tại chính phủ vào mồng hai tết Nguyên Ðán năm
Tân Sửu ».

Koji ngạc nhiên, nhưng vẫn trầm tĩnh, gập đầu xuống đất miệng cảm tạ, quai hàm cắn chặt làm nổi những sợi gân xanh trên thái dương. Tế Lý đứng dậy, xuống nâng Koji lên, miệng tươi cười :

- Ngài là quan nhất phẩm của triều đình, tước hầu cũng như tôi, xin ngài cư xử như đồng liêu.

Quay sang Nhật, Lý cũng đưa một tờ sắc chỉ, tiếp :

- ... mở ra, cứ mở ra đọc đi.

Nhật chăm chú : « ... nay truyền cho Võ Toàn Nhật nhậm chức Chưởng cơ đội Trung Kính, chớ chậm trễ trái lệnh ».

Hữu Chỉnh đứng bên hà hà cười, xen vào : « Mừng Võ tướng quân, thế là lúc nào cũng được gần gũi quan Chánh, và tha hồ học hỏi để thăng tiến trên đường công danh nhé ».

Ðưa tiễn đám quân quan đến tận bờ sông, Koji cùng Toàn Nhật thả bộ về. Nét mặt Koji lúc càng đăm chiêu, lẳng lặng đi như không có Nhật bên cạnh. Trên đê nhìn xuống sông, những cánh buồm trắng chớm ráng đỏ chiều tà trên ba chiến thuyền đã căng phừng phựt gió, lướt phăng phăng về xuôi.

Nhật ngửng mặt lên nhìn trời. Ai đó thả chiếc diều to bằng chiếc nia có gắn những ống sáo trúc. Tiếng sáo văng vẳng bay theo sức gió trầm bổng. Chợt Nhật nhớ đến Chương Tề Vật trong Nội Thiên của Trang Tử.
Chàng lẩm bẩm :

« Hiện nay ta mất ta, mi biết thế chăng ? Mi nghe biết sáo người mà chưa nghe biết sáo đất ? Mi nghe biết sáo đất mà chưa nghe biết sáo trời chăng ?

Chàng ngạc nhiên nghe Koji đọc tiếp, giọng ê a :

«…Kìa gió thổi nên muôn tiếng không giống nhau. Nhưng mà khiến cho nó tự thôi đi, hoặc nó tự gào lên, ấy là ai ?».

Trọng Thức khom lưng quì gối chui theo Toàn Nhật qua cánh cửa vừa lọt người vào trà thất. Ngồi dợi bên trong, Koji vái chào hai người :

- Ða tạ bằng hữu, đêm nay trăng vừa đúng độ, thú vị vô cùng.

Trà thất rộng độ hai mươi thước vuông, cao vừa đủ chiều cao một người đứng, trang trí sơ sài, vách là giấy bồi trên những khung gỗ. Theo lệ, không có ai được mang đao kiếm vào trà thất, khom người chui vào là để dập cho tắt cái kiêu, gây lại đức khiêm, và uống trà trong thể hòa, cái thế tĩnh lặng của bản thể. Koji nhẹ nhàng kéo khung cửa sổ. Ở chỗ ngồi, tầm mắt của cả ba người là chiếc cầu vắt qua hồ, và bờ bên kia là cây đào Phù Tang sớm nở hoa. Loại đào này Koji mang sang từ vườn nhà mình, hoa sống thường được xuýt xoát ba tháng, từ tiết lập đông cho đến khi qua Tết. Koji nhìn Thức :

- Bằng hữu là anh của Toàn Nhật nên là khách quí của tôi. Từ ngày cư ngụ Phố Hiến, bằng hữu là người thứ nhì tôi có cái hân hạnh mời vào trà thất. Hai năm trước đây, tôi có tiếp một vị, tên là Tiệp Dư, tự xưng mình là cuồng sĩ ở Hoan châu, không biết giờ này ông ta trôi giạt đến nơi đâu ?

Vừa nói, Koji vừa thoăn thoắt xoay tròn một cái chổi tre trong chiếc bát gỗ to bằng bát canh. Bên cạnh, chiếc nồi đồng reo lên như hát, hơi nước phun lên từng lớp. Chiếc nồi rất đặc biệt, chính giữa là một trục rỗng chứa những hòn than đốt đỏ, nước trong nồi xung quanh trục sôi rất đều. Trịnh trọng đổ nước vào những lá trà xanh trong bát đã đâm nát, Koji cẩn thận sang ra những chiếc chén to bằng chén tống, rồi sụp người vái khách mời uống.

Ngoài trời, trăng tròn vằng vặc. Thỉnh thoảng, tiếng chim ăn đêm vảng lại. Koji đưa tay ra nâng chiếc đàn Koto treo trên vách, nghiêm trang :

- Tôi xin hát hầu hai bạn

Tay nhẹ nhàng gẩy lên những tiếng khoan nhặt thưa thớt, miệâng Koji ê a :

Kareeda ni ( Trên cành khô )

Karasu no tomaritaru ya ( chim qua đậu )

aki no kure ( chiều tàn mùa thu )

Tiếng hát đứt quãng nghe não ruột. Koji ngưng hát :

- Ðây là thơ thể haiku. Cứ năm âm, bảy âm rồi năm âm là dứt .

Toàn Nhật vui miệng :

- Thơ tứ tuyệt, mỗi câu bốn chữ, cộng lại là mười sáu âm. Anh Thức dịch hộ đi xem.

Thức ngẫm nghĩ rồi đọc :

Cành khô quạ đậu

chiều tàn âm u

hơi may lành lạnh

đâu đây mùa thu

Nhìn ra cây đào Phù Tang ở bên kia hồ, Thức nhẩn nha tiếp :

- Tôi thêm vào câu thứ ba, thưa nó không ở bài Haiku gốc. Buộc phải thế cho đủ mười sáu âm trong nhạc thơ tứ tuyệt, nhưng dịch như thế là chưa phải. Theo tôi, phải làm sao có đủ mười bảy âm và giữ được thể nhạc mới đúng là dịch thơ.

Koji ầm ừ, bỗng như xa vắng hẳn, im lặng một lúc rồi khàn khàn lên tiếng :

- Thầy từ hai đời của tôi là Kamono Mabuchi, người đã sáng tác ra thể Waka gồm ba mươi mốt âm ngữ.
Cho rằng cái học đến từ Trung Quốc làm cho dân Nhật không còn chân thực và thuần phác như thể hiện qua những vần cổ thi trong thiên Manyoshu, ngài cổ vũ Quốc học phái Kokugaki. Sau, học trò ngài, là Motoni Norigana tiếp tục con đường đó, nghiên cứu cổ sự ký Kojiki, cho rằng phải trở về gốc là Ðại hòa tâm Yamatogo koro, đưa nước Nhật về thời Kodai (Cổ đại) inishie (thuở xưa), bỏ hết phép tắc Tống nho đã khiến dân Nhật quá ‘’khôn ngoan’’ mà thành ra những kẻ tội nghiệp đáng thương...Norigana là thầy, Sansei,
của tôi.

Koji ngưng nói, xoay chén trà trong tay, rồi bỗng cười nhẹ :

- ... Lý tưởng là thuở ngày xưa đằng sau, mà tương lai thì mênh mang trước mặt. Người Hòa Lan đến Nhật Bản với súng ống, giúp Shogun Ieyasu Kokugawa thống nhất sau một thế kỷ nội chiến. Rồi sau là người Bồ, người Tây ban Nha. Thế giới không còn thu lại một mảnh quần đảo. Thuyền buôn tới, thuyền buôn đi, cứ mỗi lần lại thấy khác, người khác, hàng khác. Vì thế, nếu quay về quá khứ mà sống thì làm sao có thuyền Nhật Bản cũng ra khơi hội nhập vào giao thương thế giới ?

Sansei Norigana mắng tôi : « Gốc ở mình không biết rõ, nhằm mang cái biết ngoại vật thì chỉ nhiễu loạn ! ». Nhưng thực ra, ngoại nhân đã đến nước Nhật rồi, và dẫu có bế quan tỏa cảng thì cũng chẳng được lâu, cho nên tôi xin lên đường, rồi tháng tháng thư về cho Sansei, kể những chuyện tai nghe mắt thấy ... Là vũ sĩ, tôi nay lệ thuộc vào giai cấp thương gia, nhưng ôm trong lòng mối nợ Sansei. Bỏ thầy đi, tôi chỉ mong tìm ra một cái nhìn rồi một ngày nào đó trở về quì dưới chân người dâng lên một cách nhìn mới. Tôi đã giấu giữ được một trong ba mươi hai bản mộc Kaikodu Heidan của Lục Vô, con người « không vợ, không con, không cha mẹ, không bản mộc, không tiền và cũng không muốn chết », đang bị giam chung thân. Ðọc xong, Sansei quẳng trả sách, bảo tác giả nó đã mất tính giai cấp vũ sĩ vì không phải là không muốn, mà là không dám chết.

Hai năm sau, tôi dâng lên tập Seiku Monogatori ( chuyện các nước phương Tây) do Honda Toshiaki lược thảo, chủ trương khuếch trương kinh tế và phát triển mậu dịch. Sansei tôi quát : «... thôi, đi đi. Trở thành thương nhân là cái gốc giai cấp của mi. Nước Nhật không cần hạng người này ! ». Từ đấy tôi lên đường vượt biển qua Ấn Ðộ, rồi Mã Lai, và mấy năm nay đến ngụ Phố Hiến. Nay muốn đi cũng chẳng đặng - Koji thở dài, ôm lấy cây Koto, bật giây, ê à - nhưng thế mới gặp được các bằng hữu.

Koji lại hát :

Những con kiến nhỏ nhoi

chạy hàng dọc trên cành đào gẫy

Ai bỗng ngừng tay thoi

Giọng hát ngân nga não nùng, thỉnh thoảng chen vào tiếng cá quẫy trong hồ, và tiếng dế mèn kêu đêm. Thức nâng chén trà, nghĩ ngợi mông lung. Những vấn đề Koji đặt ra cho Nhật Bản cũng là những vấn đề đặt ra cho xứ sở này. Nhưng họ, họ có những kẻ như Lục Vô Shihei, như Toshiaki. Còn ta, hừ, ta chỉ độc toàn những người nhắc lại Tam Cương, Ngũ Thường, và rủ nhau ngâm vịnh. Thức lại xót xa nhớ Dương Quang, người bạn tù, cũng đã từng lên đường lưu lạc như Koji.

Toàn Nhật phá vỡ bầu im lặng :

- Ðêm nay sương xuống, lại có trăng.Các vị chắc còn nhớ Lý Bạch, « Cử đầu vọng minh nguyệt. Ðê đầu tư cố hương ». Ðó là nỗi lòng của Koji. Xin anh Thức ngâm cho chúng tôi nghe ?

Trong đầu Thức, những câu thơ tuyệt diệu vẳng lên. Nhưng cổ họng thắt lại, Thức bùi ngùi :

- Nghe chuyện Koji kể, tôi vừa lập thệ rằng từ nay sẽ không ngâm vịnh gì nữa. Bây giờ bao nhiêu điều khác cần hơn. Ðã gấp rồi !

Koji để ý trên khóe mắt Thức thoáng đọng chút gì long lanh như ngấn nước có lửa.

Khoảng tháng chạp, những vườn mai chạy dọc theo đê sông Nhị đã chớm vàng. Quán lão Thuyết tấp nập hơn. Khách thương ra vào, hàng hóa bốc dỡ cứ như theo độ Xuân về, ào ạt chiếm cứ những khoảng đất có căng những mái tranh làm tạm để tránh mưa chặn nắng. Theo lệnh Tĩnh-đô Vương Trịnh Sâm, đám giáo hữu Gia Tô phải rời qua Ða Phạn, một miệt biển ở trấn Thanh trước Tết, lý do đưa ra là dân tả đạo không được làm nghề nông mà phải chuyển sang nghề khác. Thật mà nói, Sâm nhượng bộ đám cường hào muốn chiếm đất của giáo hữu, đã ba lần bẩy lượt làm áp lực lên bọn quan phiên. Dân Phố Hiến xôn xao bàn bạc, kẻ phải đi tìm mối bán ruộng bán đất, người ở lại kì kèo dìm giá, và cư dân vùng Thái Bình mon men xuống tìm cách lấn đất định cư. Bọn thư lại Huyện có dịp làm tiền, mặt mũi trông rõ ra kênh kiệu trước cái nhớn nhác của đám con chiên Chúa Blời. Giáo sĩ Sieyès từ Phố Hiến vào Ða Phạn, đi đi về về mấy lượt, đầu óc căng thẳng nhưng vẫn giữ được nụ cười sau hàm râu quai nón lớm chớm bạc. Công việc bổ xung từ điển Việt -Pha Lang Sa- La tinh ngưng lại mặc dầu Trọng Thức đã bước đầu hoàn chỉnh phương cách phiên âm chữ nôm bằng mẫu tự An-pha-bê. Phần Toàn Nhật, chàng phải thanh toán tất cả sổ sách của Nhật Bản thương vụ. Koji đã quyết định ngưng công việc ở Ðàng Ngoài cuối tháng này, ngày nào cũng đăm chiêu viết lách, bỏ mọi sự ngoài việc tập kiếm với Toàn Nhật mỗi tối.

Trưa hôm ông Táo về chầu trời, mưa bụi lất phất bay. Vài ngày nay, gia nhân đã lần lượt về hết, nhà chỉ còn một ông lão bộc lo việc cơm nước. Suốt đêm trước, Koji lục xục viết lách. Sáng ra, Koji đốt trầm, ngồi im lặng nhìn về phía sông, mặt mũi tươi tỉnh. Tiếng đàn Koto lại vẳng lên, đứt khúc, hòa theo giọng hát ê a theo tiết âm thơ Haiku, lúc nào cũng như nghẹn ngào oán thán. Ðúng ngọ, Koji mời Toàn Nhật ngồi uống Sakê. Koji rót rượu rồi trầm giọng hai tay đưa lên, nhìn Nhật đăm đăm một lúc, nhẹ nhàng :

- Bằng hữu! Tay kiếm bạn bây giờ khá rồi. Ánh căm hờn chỉ còn thấp thoáng đường gươm đầu, nó đang dần dần tan đi ...

Ðẩy thanh gươm về phía Nhật, Koji tiếp :

- Thanh gươm này đã sáu đời là gươm dòng họ vũ sĩ Mishima. Ðến Phố Hiến, từ nay nó thuộc về bạn.

Ðưa tay chặn không cho Nhật nên lời, Koji tiếp, giọng nghiêm nghị :

- Xin chớ chối từ, gươm này thuộc đẳng cấp vũ sĩ, chỉ có thể trao lại cho vũ sĩ. Và dưới mắt Koji này, bằng hữu là vũ sĩ dòng Mishima kể từ khi bằng hữu học đường gươm đầu, đổi lại là một ân sủng như tôi đã thưa. Nhưng thôi, khoan nói đến chuyện ân sủng vội ...

Nhìn ra vườn đá sỏi hoang vu lờ mờ gợn những vòng không của dấu vết tạo thiên lập địa, Koji im ắng một lúc, rồi lại ê a :

- Chắc bạn không biết tại sao tôi được Tĩnh-đô Vương phong hầu ?

- ...

Tay mở chồng giấy xếp gọn ghẽ trong một cái khay sơn mài vuông vắn, Koji đưa một tờ cho Nhật, hàng chữ đầu đề « Luyện kim yếu pháp », giải thích :

- Vương phong hầu cho tôi là mong đoạt yếu pháp này. Sáu năm trước, tôi có giao hai mươi khẩu súng thần công lên Kinh. Bắn thử, đường đạn lệch lạc không chính xác như những khẩu trước. Tĩnh-đô Vương quở, và cho mang súng trả lại. Nhật Bản thương hội phái thợ rèn, mang yếu pháp qua đốt lò làm bễ, sửa nòng súng. Sửa được, nhưng Vương biết, đòi lấy yếu pháp. Tôi bảo thợ rèn đi trốn, khai với Vương là không có, bảo rằng yếu pháp đã được đem về Phù Tang. Dĩ nhiên là Vương không tin, cấm tôi không được rời Phố Hiến, cho người theo giám sát.

A ha, nếu Ðàng Ngoài này mà rèn được súng thì Ðàng Trong không chống nổi, đấy chuyện phong hầu cho tôi nó là thế ... Tôi không nhận thì không được. Tôi nhận mà không làm nòng súng, tất phải chết như kẻ bề tôi không hoàn thành trách nhiệm. Nhưng nếu tôi tham sống mà làm súng thì biết bao nhiêu mạng người Ðàng Trong sẽ tiêu vong ... Ôi chao, cái nghiệp này chỉ nghe qua tôi đã rùng mình rồi, bằng hữu ạ !

Koji đưa tay gạt một sợi tóc xòa trên trán :

- Ðàng Trong đánh, Ðàng Ngoài đỡ. Rồi Ðàng Ngoài đâm, Ðàng Trong chém - Koji cười nhạt - cứ thế đã cả trăm năm rồi. Ðâm chém thế, làm sao thành được một quốc gia. Không ! cái nghiệp dĩ này sẽ biến dân tộc các bạn thành một dân tộc chia rẽ từ trong tâm thức. Cùng gốc gác, cùng phong tục ngôn ngữ, nhưng chém giết nhau mãi thì cứ thù hận, cứ nghi kỵ, tạo ra cái nghiệp còn nặng hơn là phải đối phó với ngoại nhân. Nó như căn bệnh vô hình vô sắc, đục ruỗng ra từ bên trong, nguy hiểm gấp trăm lần mụn nhọt mọc bên ngoài thân thể.

Koji châm lò, tay cầm từng tờ giấy xé ra từ cuốn « Luyện kim yếu pháp », thủng thẳng bỏ vào lửa, trầm ngâm nhìn tàn giấy sém đỏ cong queo.

Koji nói tiếp :

- Trí tri ư ! Tốt. Nhưng nếu ý không thành thì tâm không chính. Lúc ấy cái biết nó quay lại tàn hại con người mà động cơ là dục vọng tầm thường. Bằng hữu , đôát xong «Luyện kim yếu pháp » là tôi sẽ bước chân vào một con đường. Nhưng thật ra, con đường đó tôi đã chọn nó trước rồi, từ ngày tôi đề cập với bạn về cái ân sủng bạn sẽ phát ban cho tôi ...

Con đường đó là đạo : tôi sẽ hành xử theo phép thiết phúc Seppuku để sống trọn vẹn với Sansei tôi là Norinaga. Sau đó, cúi xin bằng hữu gửi đoản kiếm vũ sĩ của tôi về cho thầy tôi, với hàng chữ tôi đã viết
sẵn trên mảnh vải này dùng để bọc kiếm ... Tôi viết rất giản dị :

« Ðệ tử Mishima thiển nghĩ Ðại Hòa tâm là quá khứ, còn tương lai của Nhật Bản ở phía trước, nên làm phép thiết phúc, xin Sansei nghĩ lại ».

Trường kiếm này bằng hữu giữ lấy. Tôi tin bạn sẽ dùng nó như một vũ sĩ chính đạo. Chiều nay, vào cuối giờ Thân, khi mặt trời lặn, kiếm này chặt đầu Mishima, ở chặng cuối cùng của phép Seppuku. Bạn Toàn Nhật, bạn sẽ ban phát cho tôi cái ân sủng tối thượng, giữ danh dự vũ sĩ cho tôi. Vâng, cái ân sủng đó tôi đã xin bạn từ lâu, và đổi lại cho công bằng là ba đường gươm của dòng họ ...

Toàn Nhật sững sờ, mồm há to, ấp úng kêu :

- Trời ! hỡi Trời ...

Chân tay Nhật cứng ngắc như bị vọp bẻ, nước mắt ứa ra chan hòa trên mặt. Chàng quì xuống trước mặt Koji, mặt úp xuống đất, tức tưởi :

- Koji, Koji ! Bạn tôi. Ép tôi đến thế ư ?

Ðỡ Toàn Nhật lên, vỗ về, Koji nghiêm trang :

- Không ai ép được ai! Ðó là một danh dự. Tôi biết là chém đầu không nằm trong cung cách xứ bạn. Nhưng nếu bạn không có can đảm cho tôi cái ân sủng đó, thì tôi chết đi nhục nhã, thành một con quỉ không đầu, theo bạn đến ba nghìn năm sau để đòi lại ba đường gươm. Ha, ha, bằng hữu ! Mà chết ư ? Nếu không biết sống thì biết được thế nào là chết. Ta biết chết, bởi vì ta đã biết sống. Bằng hữu, đừng cho rằng sống chết là hai thể. Một, vâng, « tử sinh đồng nhất thể », đã vậy còn sợ gì, còn tham gì ?

Toàn Nhật mím môi, nhắc lại như nói với mình, sống chết chính là một, sống chết chính là một. Còn sợ gì ? Còn tham gì ? « Tử sinh đồng nhất thể - Hà úy hựu hà kinh ».

Nhìn ra sân sỏi, nắng quái ở đâu vừa đến. Phía bờ sông Nhị, cầu vồng sau cơn mưa cong lên làm một nửa
vòng tròn, đầu bám vào chỗà không có.

Koji phanh áo kimono, kéo cho trễ xuống đến bụng được nịt chặt bằng những cuộn vải trắng cuốn quanh. Rút cây đoản kiếm dài ba tấc để trước mặt, nét mặt bình thản đến lạnh lùng, Koji nhắm mắt nhập vào khoảng hư vô bao trùm cõi tạm chốn thế gian. Tiếng sáo, lại tiếng sáo diều trên đê. Sáo người ? Sáo đất ? Hay sáo trời ? Koji nhếch mép cười, tươi tắn nhìn Toàn Nhật :

- Lấy thế đi !

Hai tay cầm lấy chuôi đoản kiếm, rồi quay ngược lại, Koji miệng cười âu yếm nhìn trời, nhìn đất, và bất ngờ đâm mạnh vào bụng dưới phía trái. Ðau đớn làm gập người xuống, nhưng Koji lại từ từ ngồi thẳng dậy, miệng khàn đặc ê a : «Những con kiến nhỏ nhoi » rồi đứt quãng, thở hồng hộc, « chạy hàng dọc theo cành đào gẫy ». Koji gắng hát tiếp : « ai bỗng ngừng tay thoi ...».

Thời gian chùng xuống, giãn ra, biến thành chất lỏng trộn vào chỗ vô hình vô tướng. Toàn Nhật hươi kiếm ngang đầu, sẵn sàng đường gươm thứ nhất. Koji quát lên, hai tay hết sức kéo cây đoản kiếm lên trên, lưỡi chếch về bên phải. Máu phun ra có vòi, tràn như nước vỡ bờ, nhuộm đỏ giải nịt vải trắng. Koji gục xuống, nhưng vẫn tiếp tục hát : « những con ... kiến ...nho nhỏ », rồi lại gượng người ngồi thẳng dậy, cổ cong ra phía trước, hét :

- Trảm !

Một nhát gươm lóe lên.

Ðó là lần đầu tiên đường gươm thứ nhất Toàn Nhật phát ra mà mà mắt không có một chút căm hờn nào. Trái lại, nó đầy ánh cảm thương. Ðó cũng là lần đầu tiên Toàn Nhật chém đầu một người. Oái ăm làm sao, người đó lại là một người Nhật đội ơn và yêu quí.

Ðứng như tượng đất, vô hồn, bất động cho đến lúc trời tối hẳn, Nhật mới định thần lại, òa lên khóc. Tiếng khóc ban đầu ấm ức trong cổ, sau to dần rồi vỡ tung ra thành tiếng gào, tiếng rú, tiếng sấm, tiếng sét. Vườn bên, trong đêm đen thăm thẳm, bỗng có tiếng mưa lộp độp trên những tàu lá chuối.

Chương 4
Cõi nổi ba đào

Bõ già khệ nệ khiêng một cành đào theo Mai đi dọc chợ Ðồng Xuân, rồi tạt ngang hàng Bè. Từ đấy, đến dinh Khương Tả hầu chỉ còn chừng trăm thước, đường quang người, đỡ phải chen lấn. Hàng phố ai cũng tất tả chiều ba mươi, ngược xuôi, nhớn nhác, nghiêm trọng như thể để dành nụ cười cho đêm giao thừa. Trẻ con không đợi được, rủ nhau đốt pháo chuột, tiếng nổ lạch bạch đây đó làm phố xá chớm thơm mùi khói. Vào cổng, Mai vừa reo vừa tíu tít gọi. Ðặng-thị chạy ra, cười hở hàm răng đen tuyền có vết bã trầu, ôm chầm lấy cô cháu họ. Nghe tiếng lao xao, Toàn Nhật từ trái nhà sau bước vào nghiêng mình vái chào. Mai ngước lên nhìn. Ơ, lạ chưa, chỉ độ nửa năm xa cách mà Toàn Nhật già dặn hẳn đi, miệng tuy cười nhưng vẫn lộ ra một chút ưu tư, một chút cẩn trọng.

Hơn tháng trước, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp để con trai trưởng là Mạnh Thuyên về Bùi Phong báo tin cho Ðặng-thị là Trọng Thức nay trắng tội. Thức lại về nấn ná dinh Khương Tả Hầu, lần lữa đến mãi tháng mười mới lên tìm Toàn Nhật trên Phố Hiến.

Sau vụ án năm Canh Tý, không khí Kinh Kỳ dịu hẳn ngột ngạt. Số người vãng lai thăm Phu tử ngày một đông. Có kẻ đến ngâm vịnh, biện bàn kinh sách. Có kẻ đến xin một quẻ dịch, hỏi dăm ba câu chuyện hậu vận. Có người đem chuyện chính sự ra kháo. Họ đều là đám thượng lưu ở đất Kinh Kỳ, con vua cháu chúa, và nếu không khoa bảng thì cũng là loại quan quyền văn võ trong Chính phủ. Phu tử tiếp mọi người, thường thì ừ à cho qua chuyện. Riêng với một người Phu tử có lưu tình, là Côn quận công Trịnh Bồng. Vào cuối tháng một, đột nhiên Bồng xuống tóc đi tu, trả lại dinh thự, nghe đâu đã đi lên thọ giới ở một ngôi chùa ở miệt Hải Dương.

Mai xin vào chào Phu tử rồi xuống bếp với Ðặng-thị. Nàng cười, mắt lại thỉnh thoảng nhìn lên nhà trên, mau
mắn giúp bà dì sửa soạn đồ cúng. Ðến chiều, Mai mới rảnh tay, đứng trên tam cấp, uống ngụm nước vối vừa pha. Nàng hỏi chuyện Toàn Nhật trên Phố Hiến, rồi giọng vẩn vơ : « ... Anh Thức có về Kinh cùng Nhật không nhỉ ? », mắt nhìn ra cổng. Lúc ấy, mặt trời chếch xuống dãy mái nhà phía Tây, lựng lên một ráng đỏ đang chuyển dần sang mầu xám lịm. Ðường vắng hẳn người đi, thỉnh thoảng mới thấy dăm ba dáng dấp hối hả như có ai đuổi. Một lát sau, đèn thắp lên, ánh vàng hắt lên vách vôi trắng những bóng người vờn xung quanh nhau như đèn kéo quân.

Cơm tối dọn ra, mọi người ăn qua loa, xong lại ai làm việc nấy. Dưới bếp, nồi bánh chưng đặt từ đầu giờ Thân sùng sục sôi, phải dập bớt củi, mở nắp nồi. Toàn Nhật rửa lại từng viên cuội trắng, tròn trĩnh, trông giống hệt như những viên kẹo bột. Nồi mạnh nha đã bắc khỏi bếp. Khi đã nguội hẳn, Ðặng-thị bỏ từng viên cuội vào nồi, khéo léo gắp ra để trên một chiếc mâm đồng có phủ lá chuối. Mâm kẹo để tiếp khách uống trà trong ba ngày Tết được xếp lên theo kiểu hòn núi non bộ, cheo veo tưởng như sắp đổ, nhưng thật ra mật dính chắc vào nhau, khó suy xuyển.

Mai vẫn ngóng về phía cổng, dáng băn khoăn lộ ra ngoài. Trong góc bếp, nàng lắng tai nghe từng tiếng động, thấp thỏm đợi một tiếng chân, thót người lại mỗi khi nghe tiếng chó sủa. Lấy tay dụi mắt cay xè vì khói bếp, Mai bâng quơ, nhắm hai hàng mi lại, hình dung cho rõ khuôn mặt một người chắc là sắép về. Gần giao thừa rồi còn gì. Pháo lại đì đùng như thúc giục. Phu tử hết đứng lại ngồi, sốt ruột : «. .. chỉ chờ có nó nữa là đủ mặt Tết này ! ». Nói xong, Phu tử quàng chiếc khăn quấn cổ, bước ra vườn, đi về phía cổng.
Ðêm ba mươi tối như mực. Ðặng-thị đã sắp xong mâm cúng. Mai lại nhắm mắt, nhớ lại buổi đến thăm Thức trong ngục. A, cái con người kỳ lạ, mồm sưng vù mà vẫn toác ra cười khi nghe nói đến hai chữ số mệnh. Mai kéo thời gian ngược lại bằng cái trí nhớ mỏng mảnh căng ra đằng sau như tơ vương vào thuở ban đầu. A, cái thuở đến khó quên, dẫu là cho một người vô tâm nhất.

Nửa năm trước, khi chân ướt chân ráo đến Thăng Long, người đầu tiên đếùn thăm thầy trò Phu tử là Nguyễn Du. Hỏi thăm được nơi phu tử tạm trú, Du vội vã tới ngay. Ðó là một thiếu niên mảnh khảnh, lưng hơi gù, miệng trễ, mũi cao, da trắng như da con gái. Tính dí dỏm, khi nói giọng Du có chút ngân nga, miệng tươi, nhưng cặp mắt sâu thăm thẳm thoáng có cái gì xa xăm vời vợi. Mừng ra mặt, Du nắm tay Thức và Nhật, rồi xin phép vào chào Phu tử. Khi ra, Du bảo :

- Thầy chỉ nói có một câu, đố các anh biết là gì, nói được thì đệ xin đãi các anh một bữa tối ở đất kinh kỳ hoa lệ này.

Du bắt chước Nhật và Thức, quen mồm gọi Phu tử là thầy, mặc dầu mình là con của Nguyễn Nghiễm, thầy Phu tử, và cùng vai vế với Khản, người bạn đồng môn nhưng kém Phu tử trên chục tuổi. Nhật và Thức chịu, Du nhanh nhẩu :

- Ðệ giúp hai người anh văn hay chữ tốt nhé! Câu này là của Hàn Dũ.

- ...

- Chịu chưa ?

- ...

- Bất bình tắc minh. Phải chăng lòng không đặng, ắt sẽ thành lời !

Thức vui vui :

- Thôi, thế thì ta đãi bữa tối này vậy.

Du giẫy lên :

- Ðùa à, anh thầy đồ «Nôm na là cha mách qué » kiết xác, túi có bao nhiêu mà ngông nghênh được. Ðây là phần đệ ...

Nói chưa dứt lời thì có tiếng gọi từ gian ngoài. Ba người ra, một người con gái nhỏ nhắn vội cúi chào. Du vui vẻ kêu : «A, thì ra chị Mai ».

Ðặng Thị Mai ngước lên, đôi mắt lấp lánh mầu hạt dẻ. Mai không cao lắm, mình dây, mặc một chiếc áo cánh gà màu ngà có quấn dây lưng tím nhạt, tóc vấn khăn nhung màu đỏ gụ. Nàng hé miệng cười e lệ, hàm răng hạt huyền đen nhay nháy làm tăng sắc hồng tự nhiên của cặp môi căng mọng. Du giới thiệu, rồi trêu :

- Hai ông anh tôi chê gái Nghệ quê mùa, rắp tâm làm rể đất kinh kỳ này đấy.

Mai cúi mặt thẹn thò rồi xin vào chào Phu tử. Gia đình nàng gốc từ Thanh Hóa đã phiêu dạt vào Phù Ðổng từ hai đời trước. Nàng là em út của Ðặng Thị Huệ, vốn họ hàng xa với Ðặng thị, vợ phu tử . Huệä hiện là sủng phi của chúa. Ngược hẳn lại với người chị luôn đem cân sắc đẹp và sự khôn ngoan bằng vàng ròng, Mai chỉ mê sách vở, thơ văn. Học chữ với phụ thân, rồi sau, nàng lại được Thụy Liên, cháu ruột của Hồng Hà nữ sĩ Ðoàn thị Ðiểm, trau dồi thêm cho nên Mai nắm bắt được cách cảm nhận văn chương khá tinh tế. Khách thơ ở Thăng Long mỗi khi gặp nàng thường ít dám ngông nghênh, một phần vì nhan sắc nàng, một phần vì tài nàng.

Thụy Liên đeo đuổi chí của Ðoàn phu nhân, nhất định không chịu hé mắt xanh tính chuyện chồng con, đến ở với bà cô mấy năm trời. Ban ngày Liên giúp Ðoàn phu nhân chấm văn điểm sách với đám học trò, tối đến hai cô cháu lại cùng nhau ngâm vịnh. Cũng như Ðoàn phu nhân, Thụy Liên coi trọng chữ Nôm, đến nay lại hết lòng gửi gắm Mai tiếp tục con đường ấy. Vì thế nên tuy mới gặp, Mai đã biết tiếng Trọng Thức từ dăm năm nay. Dịp hội ngộ này, nàng đã sắm sửa thức ăn mang lên, nên cái dự định đi ăn tối của Du phải tạm gác lại.

Sau bữa chiều, mọi người rủ nhau ra Khiêm Các. Vào cuối giờ Dậu, trăng lên trong màn sương tím bạc. Lạ thay, trăng lên từ ven hồ Trúc Bạch, lừ lừ đỏ tía, vụt lên trời nhanh đến độ chỉ một khắc sau đã đậu ngay đầu ngọn trúc. Nếu chẳng biết giờ giấc, trăng lên nhưng nhìn ngỡ như lại là mặt trời đang xuống. Phu tử tay gõ nhẹ vào phiến đá, miệng ngâm nga se sẽ :

Nguyêt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Mọi người lắng hồn trong khói sương, ngây người trước cảnh thần tiên, im lặng đắm mình vào không khí huyền ảo tưởng như sắp loãng ra những giấc mơ vô chung vô thủy. Du trầm ngâm rồi nói :

- Chị Mai, thơ hay thế chắc chị đã dịch ra Nôm rồi nhỉ ? Mời chị đọc hầu thầy.

Mai e thẹn, li nhí chối từ. Phải Phu tử giục đến lần thứ hai thì Mai mới nhỏ nhẹ :

- Xin thúc phụ cho con phép...

Ðợi Phu tử gật đầu, Mai nhẹ nhàng cấùt tiếng ngâm :

Trăng lặn, quạ kêu, sương giăng trời

Ðèn chài le lói nỗi khôn nguôi

Thành cao bóng đổ chùa hiu quạnh

Nửa đêm văng vẳng tiếng chuông rơi .

Thức lắng tai nghe tiếng ngâm thơ da diết, hồn bay lạc vào vùng sương tím bạc đang ngày càng dày đặc.
Phu tử vỗ nhẹ vào tay Mai, ý khen ngợi. Nhật cất tiếng :

- Hay, hay lắm. Nhưng Nhật hỏi chị Cô Tô đâu, Hàn San đâu ?

Mai ngước mắt lên, dịu dàng :

- Không cần ! Người mình đâu ai biếât Cô Tô với Hàn San

Nàng nhìn về phía Thức, cúi xuống tiếp :

-... Nếu lập lại bằng Hán tự những địa danh xa lạ bên Trung Quốc, hay là dùng điển tích nhà Chu, nhà Tấn thì chỉ tạo thêm mối lệ thuộc.

Quay sang Phu tử, nàng cúi đầu như nói riêng :

- ...thế chẳng hơn gì, và nhất là không tạo được sự độc lập tinh thần của dòng Nôm ta.

Ngửng lên, Mai bắt gặp Thức nhìn lại mình. Cặp mắt ấy nóng bỏng, cháy lên rừng rực đam mê, nhưng vẫn giữ được một sự trìu mến lẫn kính trọng. Suốt đời, Mai không bao giờ có thể quên được cặp mắt ấy...

Bỗng một tiếng pháo đùng ở đâu nổ choáng tai làm Mai choàng dậy. Ðặng-thị tươi cười: «Năm mới rồi... ». Tiếp đấy, không biết cơ man nào là tiếng pháo. Xa xa, pháo thăng thiên bay lên trời, vỡ thành những chùm hoa lóng lánh ụp xuống nhân gian, đánh mốc thời gian chòng chành trên một sợi giây không ai biết đầu, không ai biết đuôi, và có lẽ chẳng gì buộc lại được.

Khi dâng tư dinh của mình cho thế tử Trịnh Cán lúc còn miệng sữa, Hoàng Tế Lý chỉ nói với một mình Ðặng Thị Huệ về con đường hầm chạy từ dinh ra cửa Bắc. Lách qua phía vườn Bích Câu, đường hầm ngược lên phía Tây, nắp hầm ngụy trang bằng một ngôi mộ trông tầm thường trong khu nghĩa trang nằm cạnh bến Tây Long. Huệ thường ở sát bên Cán để trông nom, vì năm lên ba là Cán bắt đầu oặt oẹo liên miên, thuốc men hàng tháng, lắm khi tưởng đã nguy. Có kẻ vu là Dương Ngọc Hoan, mẹ của Trịnh Tông, đã yểm bùa nơi mộ phần nhà Chúa hòng triệt thứ tôn trưởng, nên Cán mới bệnh hoạn đến độ vậy. Huệ vào khóc với Trịnh Sâm, đập đầu xuống thềm, xin chúa tra xét phần mộ. Việc đó là việc cấm kỵ vì đụng đến vong linh của tổ tiên nên Sâm gạt đi. Từ ngày Tông định làm phản và bị truất xuống làm ¨con út ¨, Huệ lại xin Chúa nghĩ lại, Sâm vẫn không chịu. Ðể bù trừ, Sâm đành bằng lòng định ngày làm lễ thành hôn cho đứa con gái yêu là Ngọc Lan với Ðặng Mậu Lân, em Huệ, kẻ dân Kinh Kỳ thì thầm to nhỏ gọi là ¨ hung thần mắt cú ¨.

Huệ bàn với Tế Lý, vẫn khăng khăng là Cán bị bùa yểm, bảo Lý tìm ra cách xem có gì lạ ở phần chân của ngôi mả Trịnh Doanh, cha của Trịnh Sâm. Lý không tin, cực chẳng đã, lấy cớ sang sửa phần mộ nhân ngày Tết, đích thân đến đào trộm mả và hứa sẽ kể rõ ngọn ngành cho Huệ.

Tối hôm đã hẹn trước, Lý vào nghĩa trang cạnh bến Tây Long, theo đường hầm bí mật lẻn vào dinh Trịnh Cán. Con đường này, Lý đã nhiều lần qua lại và bố trí sẵn cả chỗ ăn chỗ nằm, phòng làm nơi ẩn khi có biến. Qua cái ngách cửa, bất ngờ một bàn tay chặn Lý lại. Lý cau mặt, nhưng mặc cho bàn tay đó luồn xuống đai quần giật mạnh. Mùi hương nhài sực vào mũi Lý. Tiếng Huệ nói: « Há mồm ! » rồi tay thò ra cậy miệng Lý. Lý nuốt một ngụm thuốc, vị ngọt, nhưng hơi cay xông lên, mặt nóng dần. Lý túm lấy bàn tay đang lần xuống đùi mình kéo mạnh, rồi ôm xốc người Huệ lên. Mái tóc Huệ đen biếc xõa tung ra rồi xổ xuống tựa một đàn rắn lục. Huệ trườn mình lên hai chân kẹp vào mông Lý, hai tay nắm tóc, lưỡi lè ra cắn vành tai Lý, miệng rên rỉ, thúc giục. Thuốc ngấm. Lý gào lên. Huệ lắc người như con thoi, bàn tay tì cứng lấy hai vai Lý, móng sắc bấm vào làm máu Lý ứa ra, rỉ xuống. Lý xoay người áp Huệ vào bức vách, hai tay nắm cứng lấy bắp đùi Huệ nhấc lên, rồi thúc hạ bộ vào, táo tợn, lì lợm. Cứ thế. Hai sinh vật ấy hào hển quấn lấy nhau, cắn rứt nhau, kêu van nhau rồi cuối cùng buông nhau ra, đẩy nhau nằm vật xuống, mồ hôi nhễ nhại.

Lúc trống canh hai điểm, Huệ tỉnh dậy, lay Lý : « Này, việc thế nào ? ». Lý đáp :

- Ðào chân mả, quan sát kỹ nhưng không thấy gì ! Duy có một điều ...

- ...

- Lúc lấp lại mả, tôi bỗng thấy một con rết vàng dài bằng cái đũa. Nó nhẩy lên quần, rồi leo vào áo, tôi phủi không được. Nó lên đến cổ, rồi thoắt một cái, không biết biến đi đâu mất ...

- Chắc là nó rơi xuống đất, lủi vào cỏ ...

- ...

- Nếu màu vàng thì chắc là điềm lành, màu vàng là màu đế vương. Con ông chứ còn ai ! Cán làm vua thì đúng là ứng vào tên tục ông là Hoàng Ðăng Bảo. Có đổi ra Tế Lý lúc ấy cũng chẳng được ! Hừm !
Huệ tư thông với Lý từ khi Lý còn ở trấn Nghệ. Rồi mỗi lần Lý về Kinh, họ lén lút gặp nhau, Trịnh Sâm không mảy may ngờ vực. Gần gũi Sâm trên ba năm, Huệ vẫn chẳng thai nghén gì. Ngẫm lại, hơn chục năm qua Sâm đã ăn nằm với cả tá bà phi, nhưng kể từ ngày đẻ công chúa Ngọc Lan, chẳng một ai thụ thai. Huệ tính toán, giả giận Sâm cả tháng dịp Lý về, tắt kinh mới lại làm lành, rồi báo Sâm tin vui. Khi Cán đẻ ra,
Sâm vẫn nghĩ là đẻ non, lại càng yêu càng quí.

Lý cười nhẹ, xoay người lại nhìn Huệ, nói :

- Phế Tông, Cán chỉ thành Chúa thôi. Vua thế nào được !

Huệ cười khanh khách :

- Quan cách nhà các ông lắm chuyện lắm, còn quá đàn bà ! Trịnh Sâm muốn soán, sợ dị nghị, gặp Nguyễn Thiếp bàn ra là thôi ... Còn ông vua « hề » Hiển Tông kia thì lẩm cẩm rồi. Duy có một điều là tôi còn ngại : Hắn chết, rồi Thái tử Lê Duy Cẩn mà kế vì ngôi vua thì không thuận lợi cho Cán... Thằng Cẩn gần gũi con
Hoan mẹ thằng Tông, không thể tin nó được.

Xưa nay Vua Hiển Tông thấy mình không làm gì nổi Sâm đành nhịn nhục, suốt ngày viết kịch diễn tuồng. Giả như không ngó ngàng đến thế sự, Vua nói ra miệng : « Việc thiên hạ nhà Chúa lo mà nhà Vua hưởng, có chi phải phàn nàn ! Tôi sướng, Chúa khổ, vậy mà tôi không biết ơn thì đáng chê đáng cười thật ». Mỗi lần kẻ ăn người ở hậm hực, Vua gạt phăng đi không nghe. Ngay việc chọn Cẩn làm Thái tử, và việc giam nhốt tự tôn là Duy Kỳ từ thuở tấm bé đến nay đã mười lăm năm, Vua để mặc Sâm muốn làm gì thì làm, chẳng dám hé lời.

Huệ xoay người lại, nhìn vào mắt Lý, nhếch miệng :

- Thằng Cẩn lên làm Vua, chắc không lâu được. Nó đù đờ, bất nhất. Cứ để nó kế vị, đợi ít lâu cho đến lúc Cán thành niên, rồi bắt nó thoái vị. Lúc ấy Chúa thành Vua là lẽ đương nhiên. Tách thằng Cẩn ra khỏi đám mẹ con thằng Tông, tôi đã có cách

- ...

- Tôi đem gả con Mai, em tôi cho nó. Vợ thằng Cẩn vừa xấu vừa độn, chẳng làm vợ cả được ...
Lý nghe Huệ tính toán giản đơn, nhưng táo tợn, luồn lách, mặc nhiên không thèm để ý đến đám quan lại
trong triều. Hỏi, Huệ thản nhiên :

- Chúng nó là bọn vừa tham vừa hèn, lại vừa ngu. Thả cho chúng tí quyền, tí danh là đủ. Chúng không đáng ta cho một đồng kẽm. Còn ông, ông ở đấy thì chúng làm gì được ? Con ông làm vua, ông cũng phải lo một tí chứ ! Ðấy là cái số ông, không làm Vua thì làm bố Vua - Huệ cười, tay lại vắt sang đùi Lý, lơi lả - không muốn à ?

Lý tự nhiên thấy ngứa ở cổ, khục khặc ho. Ngồi lên, Lý thấy mắt tối lại, khạc ra. Ðó có phải là một con rết vàng ? Nó nhanh như cắt, thoắt một cái là biến mất. Lý hỏi Huệ có thấy con rết không ? Huệ kéo Lý đè lên trên người mình, dạng chân, mồm bảo :

- ... chỉ tin nhảm, sao đỗ đến ông cống mà còn dị đoan vậy hả ?

Không về kịp cúng tất niên như đã hẹn mãi đến mồng ba Tết Thức mới về đến Kinh. Việc di giáo hữu từ Phố Hiến về Ða Phạn y theo lệnh của Chúa Tĩnh đô Vương trở nên phức tạp. Giúp giáo sĩ Charles-Antoine Sieyès giao dịch với quan lại sở tại và đám chức sắc người lương tại địa phương, Thức thấy trước mắt một điều : sự mâu thuẫn lương-giáo trầm trọng đến độ đang biến thành những nứt rạn khó hàn gắn được. Mang đất của người lương chia cho người giáo, lại không đền bù gì cho tương ứng, đám quan lại đã đẩy người lương vào thế bạo động. Người lương hợp thành từng đoàn, mang giáo mác gậy gộc vây chặt đám giáo hữu khiến họ tiến không được mà thoái cũng không xong. Charles-Antoine mặt mũi tái ngắt, đưa sắc chỉ của Tĩnh Vương ra, ngón tay chỉ vào khoảng đất được vạch trên địa đồ nơi giáo hữu được phép định cư cho quan Cơ xem. Viên võ quan này mang một đội lính bàng quang nhìn diễn biến, thản nhiên nhổ bã trầu rồi bảo Thức là không biết gì và chẳng có lệnh trên nào đưa xuống. Cứ thế, giằng co cả tuần, đàn bà trẻ con chịu cảnh màn trời chiếu đất, nhao nhao kêu khóc. Gọâp vàng lại đút lót, quan Cơ mới mở đường, lùa giáo hữu vào một khu đất lầy nước mặn. Giáo hữu cắn răng, kêu lên quan Huyệân, rồi cũng chuẩn bị dao gậy. Thức vào hầu quan, lo lắng : «.. từ Phố Hiến lên đây, ít ra là khoảng trên một ngàn đinh. Còn giáo hữu ở Ðàng Ngoài hiện có đến trên hai mươi vạn, cứ thế này là sẽ nội chiến trên toàn lãnh thổ ». Quan cười khềnh khệch : « ... thầy rỗi hơi, lo chuyện đâu đâu. Ai chết mặc ai, cái thân thày, thày lo. Chuyện thiên hạ xá gì ! Thôi, về Kinh đi, ở lại khéo chết chẹt đấy ! ». Viễn tượng một cuộc nội chiến giữa những kẻ khốn cùng tranh nhau chút đất đai khô cằn để có cái mà ăn khiến Thức rùng mình. Chàng ở lại Ða Phạn cho đến khi tạm ổn định được đời sống của giáo hữu rồi mới lên đường.

Dăm bữa rồi, cứ sáng ra là người đó dựa mình vào thân cây hoa sữa, nón mê kéo sụp xuống mũi, ngồi đọc sách. Gia nhân mở cổng dinh Khương Tả hầu ra hỏi, người đó chỉ lắc đầu. Có kẻ hầm hè đòi đánh, người đó ngước lên, mắt sắc như dao, chòm râu quanh mép đã ngả mầu muối tiêu, hất hàm : « Ngoài cổng dinh đất là của thiên hạ, vào hỏi chủ ngươi xem có phải không ? », rồi lại điềm nhiên cúi xuống đọc sách. Gia nhân vào kể lại, Trọng Thức bước ra sân nhìn.

Ðẩy cánh cổng, Thức thủng thỉnh bước về phía cây hoa sữa. Người ngồi gốc cây giở nón, ghé mắt nhìn, rồi lại cúi xuống nói trống không: «Tôi xin được yết kiến La Sơn Phu tử ». Thức từ tốn báo là thầy mình đã về Bùi Phong từ tuần trước. Người ấy lại ồ một tiếng, thở dài, rồi lại giở nón ngước mắt hỏi : « ... dám hỏi, huynh đài tên họ là Võ Toàn Nhật ? », giọng trọ trẹ miền Hoan Châu. Thức lắc đầu, tự giới thiệu. Người ấy xưng tên là Trần Danh Kỷ, hiệu là Tiệp Dư, vốn có giao tình với Koji Mishima, người trên Phố Hiến đại diện cho Nhật Bản thương cục.

Trưa hôm ấy, khi Toàn Nhật về thì Thức đang ngồi trò chuyện với Kỷ. Kỷ đứng dậy, vòng tay chào. Toàn Nhật mới nhận chức Chưởng Cơ của đội Trung Kính, có trách nhiệm lo an ninh và bảo vệ toàn bộ dinh thự trong phủ Chúa và dinh các đại thần trong Chính-phủ. Kỷ tỏ vẻ ngạc nghiên :

- Huynh đài có cơ duyên đấy, có phải ai cũng có cái trách nhiệm ấy đâu. Quan Chánh dường tin người là phải có cơ sở. Thế còn Phu tử, ngài thuận lòng cho học trò nhận quan nhưng chính mình thì lại lánh xa hoạn lộ, cũng là điều lạ ...

Toàn Nhật mỉm cười :

- Thầy tôi không o ép gì ai cả, chỉ nói “thuận thiên hành đạo”.

- Việc Phu tử nhất quyết không tán thành việc soán ngôi nhà Lê đã đồn đãi đến Ðàng Trong, ai cũng tâm phục.

Tay chỉ Thức, Kỷ cười :

- Chỉ thiếu một chút là cái đầu huynh đài đây suýt rơi trong vụ án năm Canh Tý !

Kỷ thân mật kể chuyện Ðàng Trong cho Thức và Nhật , và nhất là tình bạn với Mishima suốt mấy năm qua.
Cơm nước xong, Kỷ xin phép ra về. Khi Nhật tiễn ra cổng, Kỷ quay lại, bất ngờ hỏi :

- Quyển sách ấy của Mishima, huynh đã trình lên quan Chánh dường chưa ?

Nhật ngẩn người, chưa nghĩ ra, hỏi lại : « Sách nào ? » thì Kỷ đã chỉ vào những cành mai còn vàng hoa, nói lấp chuyện :

- Không, chẳng có gì quan trọng ! Toàn huynh xem, mai còn vàng thế này thì chắc năm nay mùa xuân dài
hơn thường lệ, và hẳn không phải lo hạn hán.

Nhìn bóng Kỷ khuất sau lối ngõ hai bên trồng trúc bạch, câu hỏi « sách nào » văng vẳng. Toàn Nhật thầm nghĩ, chẳng hiểu có phải là cuốn « Luyện kim yếu pháp » không ? Nếu thế, Kỷ là ai ? Một người gốc châu Hoan, đỗ hương cống năm Canh Dần, xử mà không xuất hơn chục năm nay, rày đó mai đây, kết bạn với cả những ngoại kiều như Mishima ? Nhưng cũng có thể là một quyển sách khác, chẳng hạn như cuốn « Chuyện các nước phương Tây » (Seiiku Monogatari ) mà Mishima vẫn để gối đầu giường. Toàn Nhật ngẫm nghĩ rồi lắc đầu, bật cười, tự nói cho mình nghe « Cái bệnh ngờ vực ở đất Kinh Kỳ này lây thế mà nhanh thực ».

Ðặng Thị Huệ vồn vã nắm tay em kéo ngồi xuống chiếc sập gụ lên màu đen tuyền bóng lên như thoa mỡ. Nàng đưa tay vuốt lại vài sợi tóc vấn vội còn xòa trên thái dương Mai, miệng tươi tắn :

- Chị có một tin vui báo em. Này Mai ạ, Thái tử Cẩn nhờ người dạm hỏi em về Ðông cung làm Ðệ Nhất thứ phi. Việc cưới phải làm gấp, vì nay Ðức Vua chừng yếu lắm, chẳng biết lúc nào ... Chị tính là sau lễ tơ hồng cho Mậu Lân, chị mới có thể lo đến phần em ...

Mai bàng hoàng, tai ù lên, nghe Huệ nói như vẳng đến từ một cơn mơ. Cùng cha nhưng là con bà lẽ, thuở tấm bé Mai phải gọi mẹ mình là «chị » cho đến khi mẹ mất. Ngày xưa, khi mẹ «cả» lấy vợ cho cha, mẹ hằn học: « tuổi tao hết vui hết thú, lấy người về hầu ông ấy, đỡ nhọc đỡ vướng ». Bà lẽ, lúc ấy mới mười sáu, là một cô bé còn ngây thơ. Sau lễ tơ hồng, cô bé mặt xanh lớt, nhịn ăn cả tuần lễ, cứ nghe tiếng chân ban đêm là dúm người lại. Hai năm sau, Mai ra đời. Mẹ «cả» ngắm Mai, rồi khinh khỉnh nói : «... đúng là cha già con cọc ! ».

Năm Mai lên tám, «chị » bỏ Mai đi, thở hắt ra, miệng rên : « Tội nghiệp con mẹ một mình ! » rồi nấc lên, đầu ngoẹo xuống, tay vẫn nắm cứng lấy Mai, phải hai người mới gỡ ra được. Mẹ «cả» bảo Huệ, lúc ấy tuổi xấp xỉ tuổi «chị » đẻ ra Mai, giọng sa sả: «Từ nay mày lo cho con ranh này !».

Vài tháng sau, mẹ «cả» đau yếu, cả ngày nằm một chỗ, nhưng vẫn tỉnh táo. Mẹ bảo: «... Con Huệ, tao đã lo cho mày vào hầu hạ Chúa trước khi tao chầu trời, chậm thì lại kẹt cái tang mẹ. Sau này, mày lo cất nhắc thằng Lân, nó chữ nghĩa không có, chỉ suốt ngày lêu lổng ». Mấy ngày sau, mẹ gọi Huệ và Lân vào phòng, đuổi cha ra, rồi dằn từng tiếng: «Tao sắp đi về với ông bà. Vốn liếng nhà chẳng được là bao. Cha chúng bay là thứ vô công, chỉ lăng nhăng hết ngâm lại vịnh. Nhìn ngang, cũng chẳng bằng ai, nhìn lên thì thấy ai cũng hơn, nên chỉ biết gục mặt nhìn xuống, miệng nói nhân, nói nghĩa, không màng công danh tự lừa dối mình. Hai chúng mày chẳng nhờ vả gì được cha đâu...Nhớ đây, mẹ dặn : đời chúng mày, phải làm thế nào để chẳng phải quì gối trông lên một ai. Muốn thế, phải có tiền. Muốn có tiền, phải có quyền. Muốn có quyền thì đừng lấy chuyện nhân nghĩa tầm phào làm mốc. Cái mốc khiến được thiên hạ là lợi, là tiền.Tiền à, là Tiên là Phật, là ngọc là ngà, là cái đà của danh vọng, là cái lọng của nịnh thần, là cán cân của công lý... ». Mẹ «cả» ngưng nói, rồi thều thào: « sáng mai, con Huệ vào phủ Chúa, nhớ lời mẹ ».
Mẹ «cả» đi ngay tối hôm đó, nhưng chỉ báo tang ba ngày sau, đợi Huệ vào phủ Chúa xung thị nữ trước đã. Huệ làm vẻ không hay biết gì. Ngày đi chôn mẹ «cả» chỉ có cha, Lân và Mai. Từ đấy, gia cảnh túng quẫn, đồng ra đồng vào là nhờ tay Huệ. Cha tuổi cao, chỉ quanh quẩn với Mai, dạy Mai ngâm vịnh, và phàn nàn Lân là loài nghịch tử, họ Ðặng đến đây coi như tuyệt tự. Còn Lân thì kéo bè kéo đảng rủ nhau lấy tiền xâu ở chợ hàng Da, hung bạo đến độ nổi tiếng một vùng. Ít lâu sau, Huệ không những chinh phục Trịnh Sâm mà còn cả đám quan thị phục dịch trong phủ. Ðến lúc ai muốn gì, cứ nói với Huệ là Sâm cho toại ý, người đời
gọi Huệ là bà Chúa Chè.

Nhìn Mai, thình lình Huệ lên tiếng:

- Em nghĩ thế nào ?

Mai ngước nhìn Huệ, cắn môi ngập ngừng :

- Chị để em nghĩ, việc một đời ...

Huệ ngắt lời :

- Bà Thái phi đau yếu, bệnh tật, lại đứng tuổi rồi. Sau, là em. Ðức Vua chắc sống cũng chẳng còn lâu. Như vậy, chị độ là em sẽ thành hoàng hậu nhà Lê, làm vang danh cho họ Ðặng, chắc cha cũng mỉm cười nơi chín suối...

Ngẫm nghĩ một lát, Huệ nói tiếp, giọng đanh lại :

- Không phải ai cũng được như chị em mình. Chị cũng biết là em có tình ý với một anh thầy đồ xứ Nghệ. Thái tử Cẩn già nua, nên em cũng đừng phí độ xuân xanh của mình. Quan Chánh dường có ý xếp việc cho thầy đồ nhà em được gần gũi em trong Ðông cung phủ. Việc ấy không có gì khó cả...

Huệ nheo mắt nháy, cười giả lả :

- Bây giờ em về xếp đặt, rồi đầu tháng lên đây ở với chị, giúp chị trông nom thế tử Cán vẫn cứ oặt oẹo, chưa thuyên giảm được chút nào.

Huệ giữ Mai ở lại ăn cơm chiều, bảo Mai vào chơi với Cán. Ði qua những hành lang lờ mờ thấp thoáng ánh bạch lạp, Mai bước vào một căn phòng tứ bề rủ chướng gấm, mùi thuốc xông vào mũi. Cán reo : « Dì Mai, mẹ dặn thế nào dì cũng đến, Cán đã sắp sẵn đồ chơi đây rồi !». Cán đứng lên, chân không vững xiêu đi suýt ngã, mặt xanh xao, bụng ỏng, tay bưng một hộp gỗ đựng dế có đục lỗ. Mai ra cửa sổ định kéo mành, nhưng thị nữ giơ tay lên chặn lại, nói rằng tuyệt đối cấm vì sợ gió máy. Mai ngồi xuống tràng kỷ, miệng đắng lại, khô tưởng như bỏng. Chập chờn tranh tối tranh sáng, văng vẳng trong đầu Mai tiếng hát quan họ « ... cá cắn câu biết đâu mà gỡ... chim vào lồng biết thuở nào ra ». Mai đưa tay lên quệt mắt, lòng quặn lên một niềm hãi sợ đang ầm ập kéo đến hệt như một cơn giông bất ngờ.

Ra khỏi Cấm cung, Mai ngơ ngẩn như người mất hồn, chân bước về phía hồ Thủy Quân, lòng trống trải để gió lộng tứ bề. Buổi tàn thu, những cây bàng cong queo rắc lá vàng xuống vệ đường vòng quanh hồ như trải thảm dưới chân. Giữa hồ, tháp gươm nổi lên để đánh bạn với nỗi đìu hiu của đàn sâm cầm tha về để hoang trên cỏ dại.

Ngồi xuống gốc cây đại thụ đâm chồi ra mặt hồ, Mai lẳng lặng nghe hồn mình se sắt theo hơi lạnh đang lẩn qua chiếc áo bông bằng nhiễu màu gụ đỏ. « Như vậy, chị độ là em sẽ thành Hoàng hậu nhà Lê ...», tiếng Huệ lại vang lên trong đầu Mai. Không, chị Huệ, em chỉ là một thứ đồ vật mang ra gả bán. Khi thành Hoàng hậu thì em chắc chắn em không còn là em. « ... Quan Chách dường có ý xếp việc cho thầy đồ nhà em được gần gũi em trong Ðông cung phủ ». À, hay nhỉ. Vẹn toàn ghê, chưa gì đã rắp tâm trốn chúa, lộn chồng. Nhử nhau bằng vàng và tội lỗi, chị Huệ ơi, chị định nặn em theo khuôn chị, để « làm vang danh họ Ðặng, ... cha cũng mỉm cười nơi chín suối ». Không, chị làm sao hiểu được cha. Cha chắc sẽ ngậm hờn thì đúng hơn, chị ạ.

Mai chợt buồn nôn khi nhớ lại cảnh Huệ nheo mắt nháy, vục vội đầu nôn thốc nôn tháo xuống hồ. Nhìn bóng những cành đại thụ gẫy ra, rồi nhòa nhạt, như chắc không bao giờ sẽ hiện lại nguyên hình nguyên ảnh, nàng hoảng sợ. Ðứng vội lên, Mai đi như chạy về dinh Khương tả hầu.

Khi Thức ra mở cổng, Mai òa khóc, nước mắt như mưa. Ðưa Mai ra cạnh bờ ao, Thức chấm nước mắt cho Mai, tay ôm lấy bờ vai gầy guộc run rẩy nép vào lòng mình. Thức xót sa nhớ lại những giọt nước mắt ngày Mai khóc khi đi thăm mình trong cảnh tù ngục năm ngoái. Nghe Mai kể xong, Thức thở dài, mắt nhìn lên bầu trời đang ngả sang màu mực nhạt. Mai im lặng, chờ đợi. Thời gian giãn ra tưởng dài đến vô chừng trong khi Thức vẫn mím miệng, hàm bạnh ra, cái sẹo đâm xuống chân mày co giựt từng hồi. Không nhịn được, Mai ấp úng :

- Phải làm gì bây giờ ?

Tránh cái nhìn trách móc của Mai, Thức hỏi lại, ngây ngô :

- Em định làm gì cơ ?

Vừa bực, vừa buồn cười, Mai sẵng :

- Hay anh muốn có cái việc gì ấy ở Ðông cung phủ ...

- Không, nói bậy - Thức quay lại trừng mắt - Em phải từ chối. Rồi anh xin thầy đến hỏi em về ...

Bấy giờ, Thức bỗng nhỏ đi như một đứa trẻ trong mắt Mai. Nàng bình tĩnh :

- Họ nắm quyền, nắm thế, chẳng để mình yên để hỏi để cưới như thế đâu. Hai ta không có cách gì khác là trốn đi ...

Thức như người trên mây, bật miệng :

- Nhưng trốn đi đâu ?

Bật cười để ghìm cơn giận, Mai cố nhỏ nhẹ đáp :

- Bầu trời này còn rộng chán cho mình nương náu ...

Nhìn Thức cứ nghệt ra, Mai bỗng tủi thân, hệt như kẻ vừa ngửa tay xin mà không được cho. Hộc lên một tiếng, nàng lại cắn răng, nhưng nước mắt đã giàn giụa. Hai tay nắm lại, nàng đấm thùm thụp vào ngực
Thức, miệng ấm ức kêu :

- Giời ơi là giời ...

Thức ngạc nhiên, rồi nhẹ nhàng nắm lấy hai tay Mai, áp vào mặt mình cũng đã nhòe nhoẹt nước mắt. Mai nhũn người, thở hổn hển. Bấy giờ, Thức lẳng lặng xiết chặt lấy Mai, hiểu rằng từ nay sóng gió kéo vào đời cả hai người.

Mai ở lại dinh Khương tả hầu ăn cơm tối. Khi nàng định ra về, Thức nắm lấy tay, kéo lại hỏi, giọng run rẩy :

- Em còn về đâu nữa ?

Nhìn mớ tóc búi vội còn lòa xòa trên trán Thức, Mai thấy nàng mềm lòng đi, yếu ớt khẽ gỡ tay ra. Nghĩ thế nào, nàng quay phắt lại nhìn Thức, quyết liệt :

- Em nay chỉ còn một chốn về mà thôi !

Ðêm hôm đó, Mai cởi quần áo, đắp chiếc chăn đơn mỏng mảnh, lên giường nằm. Ngồi xuống cạnh Mai, Thức rón rén với tay vặn bấc chiếc đèn dầu cho bớt sáng. Chàng kéo chiếc chăn khiến Mai nhắm mắt, mặt quay vào vách, hai tay đưa lên che ngực, chân vắt chéo co lại. Thức cúi xuống áp môi vào bụng Mai, ngụp lặn vào màu sữa trắng tinh mơ và ngát mùi dạ lan của da thịt trinh nữ. Cứ thế, Thức thăm dò từng tấc vuông trên cái thân thể đang nhũn ra, vụng về, quanh co, hệt một kẻ dẫn đường mà không biết đường đi lối bước. Bên khung cửa, ánh trăng chênh chếch hắt lên vách bóng lá lung linh, chập chờn, nhảy múa. Thức lần xuống hôn lên từng ngón chân Mai, rồi áp mặt vào giữa hai đùi nàng đã không còn khép lại như trước. Mùi nồng hắc thoảng lên, kích thích Thức đến tột cùng. Hai tay nâng đầu Thức kéo lên, Mai áp miệng vào tai Thức, nói thì thầm : ... « Em là của anh, chỉ một anh thôi... ».

Mai nghiến răng chịu đau, hai bàn tay luồn sâu vào tóc Thức ghì chặt lấy, biết là mình chẳng muốn níu kéo gì một thời con gái. Thời nào rồi cũng phải qua đi. Ðể còn sang một thời khác, thời đàn bà...

Toàn Nhật được phân hẳn cho dinh Khương Tả hầu làm nơi cư trú, ngại ngùng không muốn, nhưng quan Chánh dường ép phải nhận. Bằng Vũ nay làm dưới quyền Toàn Nhật, đi lại luôn luôn, nhưng cả Thức lẫn Nhật đều ngờ Vũ là người của Nội Mật viện, có ý giữ gìn. Vũ kéo đám thư lại của lính Tam phủ đến dinh, chèo kéo, làm thân. Trong bọn, Trần Nguyên Nhưng là kẻ suýt bị chém trong vụ năm Canh Tý, may có Ðăng Khoa, con trưởng quan Chánh dường, đứng ra đảm bảo cho nên mới được tha. Rút cục, Nhưng chỉ bị đánh xuống hai trật, phái ra xung quân cho đội Tiền Hùng có trách nhiệm an ninh ở vùng ngoài ven đô chứ không còn ở Cấm cung như trước nữa.

Nhật tuyển một đám lính trẻ, mỗi sáng bắt tập võ. Thời gian Nhật ở với Koji, ngoài ba đường gươm bí truyền, Nhật học thêm được phép Nhu Thuật và cách đánh ám khí, đặc biệt là ném tiêu và ném đồng chinh. Phép ném chinh, Nhật đã tập đến độ siêu tuyệt. Một tay, Nhật có thể vẩy ra ba đồng chinh được mài cạnh sắc như dao, kẻ địch đứng trong gần mười thước khó mà tránh né được. Về cách đánh kiếm, Nhật cũng cải biến cho phù hợp với loại kiếm ta, ngắn và nhẹ hơn loại kiếm Nhật. Vẫn đeo ngang hông nhưng xoay ngược lưỡi lại, cách rút kiếm của Nhật biến thành một nhát chém từ dưới lên trên, chiếm ngay thế thượng phong. Ðồng thời, Nhật cũng nghĩ ra những bài liên hoàn cho ba tay kiếm đứng hình tam giác, tiến lui đồng bộ, linh hoạt chế ngự được ít ra là ba lần số đối thủ. Quan Chánh dường, xưa vốn đỗ Tạo sĩ, không phải là một kẻ võ nghệ tầm thường, gật gù lẩm nhẩm : «... có nòi cả ! » . Một hôm Tế lý đích thân ban cho Nhật cây kiếm chuôi có khắc ba chữ «Hoàng-gia kiếm ». Ðăng Khoa không giấu được nét bực bội nhưng miệng chỉ cười nhạt. Lý biết ý, ghé vào tai Khoa nói nhỏ. Mặt Ðăng Khoa tái lại.

Từ hai tuần nay, Thức rầu rĩ, lắm buổi ngồi đăm chiêu, không nói một lời. Mai bàn với Thức, rồi cả hai nói lại với Toàn Nhật. Nhật bóp trán đồng tình, bảo :

- Tính thế cũng được, nhưng Nhật phải nhờ tay Trần Nguyên Nhưng là kẻ trong đội Tiền Hùng phụ trách ven đô phía sông Nhị.

Trước kia, mỗi lần Tiệp Dư Trần Danh Kỷ ghé thăm Thức, hai người thường thảo luận một số cách nhìn xã hội của người Tây dương. Thời gian Thức đã học với Sieyès đủ cho phép Thức dịch ra vài đoạn trong cuốn « Công ước xã hội » do Rousseau viết bằng tiếng Pha- Lăng- Sa. Kỷ không đồng tình với nhiều điểm, trừ khâu nói về quyền tư hữu, theo Rousseau, là nguồn gốc của mọi bất bình đẳng trong xã hội. Thấy Thức dạo này im lìm, không hăng hái chuyện trò như trước, Kỷ hỏi gặng nhưng Thức chỉ thở dài. Mấy hôm sau, Kỷ đến từ giã, quay về Hoan châu. Bấy giờ Kỷ nói với Thức :

- Huynh đài vào Ðàng Trong, đã có Kỷ này. Thế sự Ðàng Ngoài như nước trên lửa, vung nồi lại đậy chặt, sớm muộn cũng bung. Với người anh hùng tái thế ở trong kia, thế nào cũng sẽ đất bằng sóng dậy...

Thức hỏi :

- Có phải là Biện Nhạc ở Qui Nhơn không ?

Kỷ lắc đầu. Thức nhìn Kỷ, chậm rãi :

- Vậy là Nguyễn Phúc Thuần hay Nguyễn Phúc Dương ?

Kỷ lại lắc đầu, bảo Thức với giọng chân tình :

- Huynh muốn cứu đời, ắt đây không phải là chốn thuận lợi. Kỷ này vào dò xét, biết thực lực của đám quyền thần ở Kinh chỉ đáng mớ lửa, không ai nhóm rồi cũng cháy, chẳng cần ra tay.

Thức ngỏ ý muốn ra đi, nhưng bảo chắc còn phải đợi ít lâu. Kỷ hẹn Thức ngày rằm tháng sau ở bến Thanh Trì, và dặn chớ thổ lộ cho ai biết.

Mấy ngày sau, Kinh Kỳ nhộn nhịp hẳn lên vào dịp lễ cưới công chúa Ngọc Lan. Ðám quan lại tứ phương về Kinh dự lễ, quà cáp hàng đấu, ngựa xe tấp nập, làm đám lính Tam phủ phải ra sức lo bảo vệ, lúc nào cũng căng thẳng. Quan Chưởng Cơ Trung Kính là kẻ bận hơn ai hết, mỗi đêm chỉ chợp mắt được vài giờ, tất tả đốc lính hết công này đến việc nọ. Buổi tối tuần trăng thứ ba, Nhật vừa về đến nhà thì một đội quân thuộc viện Nội Mật ập tới. Viên đội trưởng kính cẩn :

- Trình quan, có giấy của Nội Mật viện đòi Nguyễn Trọng Thức cư ngụ tại đây.

Nhật bình tĩnh chìa tay, mở tờ giấy, chăm chú đọc. Giữ sắc diện thản nhiên, Nhật bảo :

- Quan đội, Trọng Thức đã đi từ sáng hôm qua rồi.

- Bẩm quan, người ấy đi đâu ?

- Ta không rõ ...

- Bẩm quan, theo lệnh, xin ngài cho phép khám nhà.

Nhật cất tiếng cười ha hả, rồi sờ vào đốc kiếm, miệng khinh mạn :

- Viện Nội Mật coi người như rác hay sao mà chỉ có tờ giấy này là đủ xông vào đâu thì xông, chẳng còn phép tắc gì cả. Các người khám nhà ta vì không tin lời ta, có phải không ?

Viên đội trưởng cúi đầu lí nhí. Toàn Nhật nóng ruột muốn biết tin Mai và Thức. Không còn cách khác, Nhật lạnh lùng :

- Quí vị đưa ta lên viện, tội tình gì ta chịu. Còn muốn khám nhà ta thì không được !

Nói xong, Toàn Nhật ra cửa nhẩy phóc lên con chiến mã màu trắng, vẫy tay gọi thủ hạ. Tiếng vó ngựa trên đường đến viện Nội Mật đập thình thịnh trên nền đất vào lúc trăng ló lên qua rặng cây hoa sữa. Trong Nội viện, Ðăng Khoa cười nửa miệng, bỡn cợt :

- Cá một cặp mà chỉ chộp được con cái, đã trả về cung Ðặng Tuyên phi. Còn con đực, không trú ngụ dinh quan Chưởng Cơ Trung Kính thì ở đâu ?

Toàn Nhật nghe Khoa nói, mặt nóng bừng lên nhưng dằn xuống, hỏi :

- Thế ra họ không được phép rời Kinh ?

Khoa vẫy tay. Trần Nguyên Nhưng bị điệu ra, mặt mũi bị đánh sưng vù, ủ rũ nhìn Toàn Nhật. Nhật nghiêm trang hỏi :

- Trần huynh, ngài có chiếu chỉ gì cấm Ðặng Thị Mai và Nguyễn Trọng Thức rời Kinh đô không ?

Nguyên Nhưng rầu rĩ đáp :

- Không !

Nhật quay sang Khoa, gằn giọng :

-Ðăng Khoa đại ca ! Thế là bắt người trái phép, lại còn dám xâm phạm đến thân thể võ quan của Chính-phủ, tội ấy anh bào chữa thế nào ? Trần Nguyên Nhưng làm sao biết ai cấm ai, ai cản ai ? Luật Vua phép Nước ra sao mà tước vị như anh lại hành xử tùy tiện đến vậy ?

Nhật tiến về phía Nhưng, rồi nhanh như cắt xoay người gạt hai tên lính canh ngã chổng bốn vó lên trời, tay vòng ngang lưng Nhưng kéo về phía mình, từ từ lui ra cửa. Ðăng Khoa mặt tái lại, hét lính. Ðám thủ hạ đi hộ vệ Nhật hợp thành thế kiếm trận tam giác, vòng quanh Nhật và Nhưng, chậm rãi lùi dần ra cửa dinh
Viện Nội Mật.

- Gọi cung thủ và xạ thủ ! Không để đứa nào ra khỏi cổng này!

Ðăng Khoa quát như điên như dại, tay tuốt kiếm xông lên.

Trịnh Sâm gượng ngồi lên sàng, tay dựa vào chiếc gối thêu chỉ ngũ sắc, đằng hắng lên tiếng cám ơn đám quan khách dưới trướng. Chúa nắm bàn tay bé nhỏ của Ngọc Lan đang run rẩy, nhìn đứa con gái mình nưng như trứng, hứng như hoa, nói nho nhỏ : « Ðừng khóc, con. ».

Phía bên kia, Ðặng tuyên phi chủ hôn. Mậu Lân ăn mặc chỉnh tề, áo gấm màu gụ có thêu hoa mẫu đơn to như cái bát, lưng thắt đai bằng vàng có giát những thỏi ngọc hình chữ nhật, thỉnh thoảng lại đụng vào nhau leng keng. Khuất đằng sau là Ðặng Thị Mai, đứng cúi đầu. Ðại diện cho Ðức Vua, Ðông cung thái tử Cẩn bước ra chúc mừng hai họ, nói lại những câu sáo tụng loại như trăm năm hạnh phúc, đầu bạc răng long. Quan Chánh dường Hoàng Tế Lý cung kính đứng hầu bên Chúa, thỉnh thoảng lại cúi xuống nhắc tên những viên quan biên trấn từ xa xôi về mừng lễ thành hôn cho công chúa. Nhìn con mình quì cạnh Mậu Lân cúi xuống lạy bàn thờ gia tiên, Sâm mủi lòng, ứa nước mắt, gọi Sử Trung hầu đến thì thào. Chúa giao cho Sử Trung theo phò công chúa, và cắt một đám hai mươi người thị nữ theo sang dinh cơ của Mậu Lân.
Thái tử Cẩn lân la đến gần Tuyên phi, mắt đáo quanh tìm Mai, bụng muốn xem mặt. Ðặng Thị Huệ lễ phép : « Em nó mệt nên đã xin về nghỉ, để hôm nào Thái tử qua chơi em nó sẽ đích thân ra dâng rượu cho ngài ».

Miệng cười, Huệ nhí nhảnh :

- Mà duyên càng đợi, thì lửa càng nồng. Thái tử chờ cho dăm bữa nửa tháng nữa ...

Hai hôm sau, Huệ thình lình vào mở cửa phòng Mai, mắt sắc như dao liếc, hỏi :

- Mày đi đâu mà định qua sông ngày thằng Lân lấy vợ ? Ðịnh trốn theo trai hả ?

- ...

Huệ thẳng tay giáng một cái tát nổ đom đóm, không thèm nhìn Mai ngã chúi xuống giường, riùt lên :

- Thân lừa ưa nặng. Tao dựng vợ gả chồng cho chúng bay toàn là con vua cháu Chúa, không muốn làm Hậu làm Phi, lại một lại hai đi đánh đĩ với một thằng thày đồ kiết xác gàn gàn dở dở, người chẳng ra người, ngợm không ra ngợm ...

- ...

- Từ nay, mày ở lại Cấm cung, không đi đâu nữa. Tuần sau, ta sẽ mời Thái tử Cẩn qua đây, liệu mà vui vẻ lên, đừng vác cái mặt đưa đám ra nghênh tiếp người ta. Mày cứng cổ thì tao cho người tìm băm thằng Thức ra, chỉ mang cái đầu nó về cho mày đỡ nhớ với thương ...

Mai bật khóc, rên rỉ :

- Tôi lạy chị, chuyện lấy ai nữa thì không được đâu. Tôi đang có mang.

Huệ nghe Mai nói, quay ngoắt lại, trừng mắt :

- Có thai thì phá. Mất trinh còn dễ hơn. Chút vỏ hột lựu máu mào gà vào là trông như mới. Nghe tao đây : mày muốn thằng Thức sống thì phải vâng lời tao. Nếu không, mày là oan gia của nó. Tao sai giết cả nhà nó chứ chẳng phải chỉ lấy cái mạng của một nó mà thôi ...

Nói xong, Huệ đi ra, gọi thị nữ dặn dò. Chiều hôm đó, quan Chánh dường vào dinh. Nhìn nét mặt Huệ, Tế Lý biết nàng đang cơn thịnh nộ, lửa bốc lên khóe mắt như đốt sống người đối thoại. Huệ gằn giọng :

- Quan Chánh dường ! Ngài đứng đầu Chính-phủ, việc gì cũng qua tay, xưa nay chẳng sơ suất một điều gì. Những sự gì xẩy ra cho em tôi, tôi chưa thông rõ, mong ngài cho biết thêm để tôi tường tận.

Tế Lý kể việc người Nội Mật viện theo dõi Mai từ hơn tháng nay, nên chặn ngay khi nàng cải trang thành nam nhi, đến bến Tây Long hỏi nhà thuyền ngược lên Thanh Trì. Phần Trọng Thức, chắc có lẽ đi đường bộ. Người Nội Mật viện lập tức giăng lưới khắp khu Hà Ðông, nhưng đến nay vẫn chưa bắt được. Ðồng thời, trấn quan hai vùng Thanh-Nghệ đều được báo, và chắc chắn là tóm được nếu Thức lần mò về quê.

Huệ lẳng lặng nghe, cắt ngang :

- Thức có bố mẹ anh em gì không ?

- Khải Vương phi, không ! Thức mồ côi cha từ nhỏ, mẹ cũng đã qua đời gần chục năm nay.

Huệ nghiến răng, trừng trừng nhìn Tế Lý, miệng mím lại, nói :

- Ngài làm sao thì làm, thế nào trong một tháng cũng phải lấy đầu thằng Thức mang về đây. Ai chém nó, tôi xuất một trăm lạng vàng ra thưởng!

Vừa lúc đó, Mậu Lân ở đâu sồng sộc chạy vào kêu :

- Thế này thì tức chết được ! Lấy vợ về mà chả đụng được đến cái gót chân nó. Thằng hoạn Sử-Trung lúc nào cũng lè kè bên cạnh, nào là Chúa dặn thế này, nào là Chúa dặn thế nọ. Thế thì chị bảo tôi, mang con ranh con đó về nhà để làm gì hả ?

Nhận ra Tế Lý, Mậu Lân bớt hùng hổ, im miệng lại, nhưng mặt mày vẫn cau có. Huệ không nói gì, chỉ khẽ đứng dậy. Tế Lý hiểu ý, nghiêng mình cáo từ. Ðưa Lý ra cửa, Huệ quay trở vào, nhìn vào mặt Lân, thét :

- Mày ngồi xuống !

Có ai ngờ được kẻ bàn dân gọi là « hung thần mắt cú » líu ríu khuỵu chân xuống. Huệ cười nhạt :

- Mày ngủ với cả trăm con đàn bà, còn thèm nhạt gì. Mang con ranh con đó về nhà là tao mở mày mở mặt ra cho mày thành vương, thành tướng. Cái thứ đốn mạt như mày thật ngu hơn con chó ...

Ðến trước mặt Lân, Huệ bất ngờ tát vào mặt, miệng tiếp tục hét :

- ... ngu hơn con chó.

Lân không dám đỡ, ngồi im chịu cái tát. Huệ cứ thế, tát liền tay cho đến khi mỏi ê ẩm.

« Hung thần mắt cú » ôm mặt khóc thút thít, chẳng khác gì một đứa trẻ lên mười.

Thật là may, Hoàng Tế Lý kịp thời đến vừa lúc Ðăng Khoa tuốt kiếm xông ra. Lý vội hét : « Ngưng tay ! » rồi hoành thân nhảy từ yên ngựa xuống chặn giữa đám lính phủ Trung Kính và đội cung thủ của Nội Mật viện . Toàn Nhật cúi đầu chào :

- Thật chỉ có kẻ này đắc tội với bề trên, lính cơ Trung Kính chỉ biết nghe lệnh, xin ngài cứ xử phạt một mình tôi.

Nhật nói xong, tự mình cởi kiếm, hai tay dâng lên Tế Lý. Lý xoay người về phía Ðăng Khoa, hỏi sẵng :

- Thế còn ngươi ! Không biết tự xử à? Hay bắt ta ra tay ?

Quì xuống đất, Khoa không nói năng, bắt chước làm như Toàn Nhật, mắt quét về phía Lý một cái nhìn nửa như ngạo nghễ, nửa như chịu đựng.

Lý phất tay, ra lệnh cho Toàn Nhật và Ðăng Khoa vào Chính-phủ đối chất vào giờ Tị sáng hôm sau.

Người lo lắng nhất không phải là Hoàng Ðăng Khoa. Việc giám sát Ðặng Thị Mai và Trọng Thức là do Lý ra lệnh cho viện Nội Mật chứ không do Khoa quyết định. Khoa trong bụng vẫn hận việc Tế Lý trao cho Nhật thanh kiếm Hoàng gia. Nhân thời cơ, Khoa chỉ muốn vỗ mặt Nhật cho hả bằng cách phái quân đến khám nhà Nhật, mặc dầu thừa biết là Thức không có ở đấy. Phần Nhật, Nhật lo cho Mai và nhất là lo cho Thức. Cái mạng Thức có đáng gì ! Trong sự tính toán xếp đặt ở đất Kinh Kỳ này, Thức là cái gai phải nhổ đi để gả Mai cho Thái tử Cẩn. Nhật hỏi Trần Nguyên Nhưng mới biết Nhưng đã đưa được Thức qua bên kia sông Nhị, thoát khỏi sự kiềm tỏa của cấm binh. Khách quan về dự đám cưới công chúa dập dìu, Nhật hy vọng là Thức lẩn đi được dễ dàng.

Trước mặt Tế Lý, Nhật giữ thái độ cung phục nhưng vẫn ung dung tự tại. Nhật thưa :

- Bẩm quan, ngài đã biết Thức và tôi là đồng môn, lại như anh em. Anh đến nhà, không lẽ em lại đuổi đi ? Còn như Thức làm gì, quan hệ với ai, tôi làm thế nào mà trách nhiệm cho được. Chức phận quan xếp đặt cho tôi là chỉ lo bảo vệ an ninh cho ngũ cung tam phủ, không phải giám sát bất cứ ai.

Lý giơ tay chặn Nhật, rồi quay sang Khoa, hỏi như buộc tội :

- Còn ngươi ? Ngươi gọi cung thủ định giết quan của triều đình à! May mà ta kịp đến, nếu không, ngươi có biết là tội ấy phải xử hình phạt nào không ?

Không để Khoa nói, Lý dằn giọng:

- Tội này phải xử tử, dẫu ta là cha ngươi ! Mạng đền mạng !

Ngừng một lát, Lý nói tiếp :

- Ta nai lưng gánh vác mọi việc trong Chính-phủ, nhìn quanh số người tin cậy được chẳng có bao nhiêu.
Với Toàn Nhật, ta coi như là ruột thịt nên mới giao cho trọng trách.

Nhìn Nhật và Khoa, Lý dịu dàng :

- Lòng ta mong hai người coi nhau như thủ túc, cho nên nếu một trong hai không làm được thế thì cho ta biết ngay, để ta còn tính.

Quay nhìn Ðăng Khoa, Lý trầm giọng :
- Việc Nội Mậït là quan yếu, con lấy đó làm trọng, chớ để mờ quáng bằng những chuyện không đâu. Tiện đây, ta hỏi cả hai con, việc Trần Danh Kỷ đến đâu ?

Nhật thót bụng tự hỏi có phải Kỷ cũng là người của Nội Mật viện ? Khoa nhìn lên, từ tốn :

- Thưa cha, Kỷ lẻn vào Kinh với bốn người. Hiện tóm được ba, nhưng tên nào tên nấy đều cắn móng tay lúc bị bắt, chết vì độc dược. Kỷ rời Kinh hai tuần rồi, có tin hắn luẩn quẩn ở vùng Sơn Nam Hạ ...

- Hắn là người của Biện Nhạc ? hay là người của bọn Nguyễn Ánh - Ðỗ Thanh Nhân ?

Khoa ngẫm nghĩ :

- Người của Ánh và Nhân thì chắc không phải ! Hiện Ánh đang bị quân Tây Sơn dồn vào thế phải trốn chui trốn nhủi ở Gia Ðịnh, đâu lòng dạ nào phái người đến đây dò xét ta. Còn Biện Nhạc, từ ngày tự xưng là Thái Ðức hoàng đế, hắn chừng thỏa mãn, chỉ ra vào ở Qui Nhơn, mặc hoàng bào tay cầm ấn, tập làm vua, cũng lập tam cung ngũ viện, nghe đâu lại sắp «xuống chỉ » cho thi đệ nhất khoa tiến sĩ ... Kỷ chưa hẳn là người của hắn.

- Vì sao ?

- Vì cái Kỷ dò tìm là để lấy cả thiên hạ.

- ???

- Kỷ tìm sách « Luyện kim yếu pháp » của Koji Mishima. Có lẽ vì biết Võ tướng quân đã một thời ăn cận ở kề Mishima nên Kỷ mới lần lữa đến chứ chẳng phải là vì muốn làm quen La Sơn Phu tử hay Trọng Thức ...

Hoàng Tế Lý khẽ ra hiệu cho Khoa ngừng nói, lấy tay gõ lộp bộp trên kỷ, mặt trầm trọng :

- Toàn Nhật, có biết gì về quyển sách đó không ? Có nó thì đúc được nòng súng, và đúng đấy, sẽ lấy được cả thiên hạ ...

Trong đầu Nhật, hình ảnh Koji lại hiện ra với những trang sách xé rời cháy xém trong lửa đỏ, và giọng nói khàn đặc ê a : «...A ha, nếu Ðàng Ngoài này mà rèn được súng thì Ðàng Trong không chống nổi, đấy chuyện phong hầu cho tôi nó là thế ... Tôi không nhận thì không được. Tôi nhận mà không làm nòng súng, tất phải chết như kẻ bề tôi không hoàn thành trách nhiệm. Nhưng nếu tôi tham sống mà làm súng thì biết bao nhiêu mạng người Ðàng Trong sẽ tiêu vong ... Ðàng Trong đánh, Ðàng Ngoài đỡ. Rồi Ðàng Ngoài đâm, Ðàng Trong chém...cứ thế đã cả trăm năm rồi. Ðâm chém thế, làm sao thành được một quốc gia. Không ! cái nghiệp dĩ này sẽ biến dân tộc các bạn thành một dân tộc chia rẽ từ trong tâm thức. Cùng gốc gác, cùng phong tục ngôn ngữ, nhưng chém giết nhau mãi thì cứ thù hận, cứ nghi kỵ, tạo ra cái nghiệp còn nặng hơn là phải đối phó với ngoại nhân. Nó như căn bệnh vô hình vô sắc, đục ruỗng ra từ bên trong, nguy hiểm gấp trăm lần mụn nhọt mọc bên ngoài thân thể ».

Nhật ngửng nhìn Tế Lý, chậm rãi lắc đầu.

Lý lại nhìn Khoa dọ hỏi. Khoa thưa:

- Con đã cho người lật từ hòn gạch, xem từng cái kèo, xét từng cái cột, nhưng không tìm thấy gì. Hiện nhà Mishima ta niêm phong canh gác cẩn mật.

- Ðốt, đốt nhà nó đi. Sách không vào tay ta thì không được vào tay bất cứ một ai. Còn Kỷ, phải tìm bắt cho bằng được. Ta ngờ hắn là người của Quận Tạo Phạm Ngô Cầu, hiện đang trấn thủ Phú Xuân, chứ chẳng là ai khác ! Ở Thăng Long, chắc là yên, không có gì quản ngại. Vậy chuyến này, Ðăng Khoa lấy người đi vào châu Hoan, bí mật đến Phú Xuân xem động tĩnh và tổ chức lại mạng lưới của Nội Mật ...

Nắng bên ngoài chếch qua mái hiên chiếu in lên tường những bóng cây rung rinh trong gió. Lý đứng lên, trầm ngâm, lẩm bẩm nói một mình. Nhìn Toàn Nhật và Ðăng Khoa, lòng Lý bỗng hân hoan, miệng mỉm cười.
Khi chia tay, Ðăng Khoa nghiêng người nhìn Nhật nói :

- Võ tướng quân, chuyện cũ bỏ qua cho !

Nhật chưa kịp trả lời thì Lý đã cắt ngang, vui vẻ :

- ... chúng bay phải gọi nhau là anh em, ta đã bảo phải coi nhau như thủ túc kia mà !

Không biết từ đâu chim từng đàn bay về khoảng giờ Dậu. Tiếng chim quang quác ríu lên thảng thốt như bị săn đuổi làm náo loạn dân hàng phố sống ven hồ Thủy Quân. Họ kéo nhau ra ngơ ngác đứng xem. Từng đàn chim nháo nhác bay dọc, rồi bay ngang, lắm khi tưởng như sắp xô vào nhau, nhưng lại túa ra, bốc lên
cao, sà xuống thấp. Ðầu giờ Tuất, chim đậu đen nghịt tháp Rùa.

Sáng hôm sau, cánh chim bay che rợp mặt trời, tới giờ ngọ mà trông cứ tưởng chừng như là trời đã tối. Rợn nhất, vẫn là tiếng chim kêu. Tiếng chim có lúc chíu chít như kim chích vào não bộ, có lúc lại o o tựa như cơn sốt của nước sông Nhị lên vỗ mặt đê. Bỗng nghe ầm ầm như tiếng súng thần công. Bàn dân bảo nhau rằng nhà Chúa bắn súng để đuổi chim. Chim lại nháo nhác, bốc lên tít cao, nhưng vẫn bay quanh, hàng đàn, hàng đàn, rít lên đinh tai nhức óc.

Cứ như thế, hai ngày liền. Sáng ngày thứ ba, chim sống bay hết đi đâu không còn một bóng. Còn chim chết đầy đường, chẳng biết cơ man nào mà kể. Người ta đi xúc xác chim rơi hàng xe bò mang đi đổ. Các cụ xì xào kể với nhau rằng điềm gở này đã xẩy ra cách đây hơn ba trăm năm, cũng vào độ tháng chín năm Nhân Dần, ngày Thái sư Trần Thủ Ðộ chôn sống ba trăm người tôn thất nhà Lý.

Sử-Trung quì xuống, dập đầu :

- Xin Phò mã chớ nói nặng. Nhà Chúa hai trăm năm nay tiếp mệnh Trời cai quản thiên hạ, không phải là thường, ngài nên giữ mồm giữ miệng ...

Lân nóng mắt thẳng chân đá một cái, Sử-Trung văng vào tường, mếu máo đứng lên. Ngọc Lan nằm trên sàng, xiêm y bị xé rách toạc, lõa lồ nằm co vào, sợ đến độ chỉ ú ớ rên rỉ gọi « Ới, cha ơi ... », nước mắt nước mũi ròng ròng. Lân quay lại hét :

- Câm miệng ! Quí báu đéo gì !

Quay sang Sử-Trung, Lân rít lên :

- Còn mày, đi khỏi đây ngay ...

Sử-Trung lắc đầu thì Lân rút phăng kiếm ra, chẳng nói chẳng rằng cầm kiếm lia ngang một nhát. Máu Trung phụt ra từng vũng, tung tóe bắn vào mành, vào chăn, vào gối ... Lân sững sờ, tỉnh rượu, cuốâng lên quát thủ hạ đóng cổng dinh, canh gác không cho xuất nhập. Một người thị nữ của Ngọc Lan chui qua ống cống về phủ Chúa báo.

Nghe tin, Trịnh Sâm điếng hồn, vời ngay Hoàng Tế Lý đến. Lý bình tĩnh, miệng ôn tồn :

- Công chúa còn ở đấy, Phò mã Lân nổi dại nổi điên lên thì ném chuột sợ vỡ bình.

Nói xong, Lý sai Bố-già đến dinh đòi Lân vào phủ Chúa. Lân sai người ra kiếu ốm nói thác rằng đang đau bụng. Bố-già nhất định không về, gọi to :

- Ðặng Phò mã, việc gì mà phải sợ ...

Nghe đến chữ sợ là đúng ruột đúng gan mình, Lân nổi cuồng lên, vác đại đao sồng sộc chạy ra, tay quơ chém loạn xạ, miệng hét :

- Việc đéo gì mà tao sợ đứa nào.

Bố-già đành chạy về báo quan Chánh dường. Lý bảo để đến mai xem động tĩnh, rồi sẽ tính. Trong bụng, Lý thừa hiểu là Lân sẽ nhụt dần, nhưng biết là Chúa vì bị ép nên mới đành gả con gái cho Lân, nên nhân thời cơ Lý nhất định không nương tay mặc dầu biết Lân là em ruột Tuyên-phi Ðặng Thị Huệ. Buổi sáng Lý vào chầu Chúa. Chúa bồn chồn phán : « Nó thế thì cứ giết quách đi. Chém sứ của Chúa theo phép là tội tử hình. Vậy nó chống cự, cứ việc, khỏi phải xét xử gì nữa ».

Lý liền vời Nhật đến. Sau khi gặp Lý, Toàn Nhật và Bố-già cùng một toán lính đội Trung Kính thẳng đường đến dinh Mậu Lân. Cổng dinh đóng kín, trên nóc nhà thấp thoáng có bóng xạ thủ. Nhật dàn lính ra, rồi tay
xách kiếm, một mình vào trước cổng, quát :

- Lệnh của Chính-phủ, mở cổng !

Không thấy động tĩnh gì, Nhật lẳng lặng lùi ra, lấy đà phóng chân đạp. Ðến lần thứ hai thì chiếc cổng đổ xuống. Nhật vẫy lính, từ từ tiến vào. Ðặng Mậu Lân tóc xõa, tay cầm đao chạy ra, tru tréo, lồng lộn :

- A, quân nào dám phá nhà tao ...

Toàn Nhật đứng sừng sững nhìn Lân chăm chú. Lân sựng người lại, ú ớ :

- ... mày giật roi tao ngày xưa phải không ?

Nhật làm sao quên được cái cảnh Lân cùng đám thủ hạ quây người mắc bệnh hủi lại rồi nổi lửa thiêu sống. Dằn máu nóng đang bốc lên mặt, Nhật định thần, từng bước đi về phía Lân, không nói năng gì cả, mắt xoáy vào mắt Lân cái nhìn lạnh đến làm nước đóng băng. Lân hoảng sợ, chân cứ lùi dần, đến vách thì quị xuống.
Tay trái, Nhật nắm lấy cổ Lân bóp lại, xách lên, rồi nâng bổng ép người Lân vào vách, gằn :

- Ngươi nói bậy một câu là ta vả vào cái miệng ...

Liều lên, Lân chửi :

- Tổ cha mi !

Một tiếng bốp vang lên chói tai. Mồm Lân đỏ lòe loẹt máu, nhổ ra một búng răng, mặt như hề bôi son trong những vở tuồng cổ.

Giải Lân về Chính-phủ xong, Bố-già và Toàn Nhật lững thững đi sang bến Hàm Như, nơi đóng quân của đội Tiền Hùng do Trần Nguyên Nhưng chỉ huy. Chiều hôm ấy, Nhưng mở tiệc mời bạn bè nhân ngày thượng thọ ngũ tuần. Trà dư tửu hậu, những lời đồn đãi hàng dân lại thành ra câu chuyện lính Tam phủ đem ra bàn bạc. Bố-già xưa nay vốn lừng khừng, sau dăm chén rượu, cũng mạnh miệng :

- Một họ nhà tôi đã ba đời nay xung quân tôn vua Lê, phò Chúa Trịnh. Riêng tôi, nay đây mai đó kểù từ ngày biết cầm cái dao, cái kiếm, thờ hai đời Chúa, có đâu một dạ hai lòng. Ai chứ tôi, tôi sẵn sàng chết cho nhà Chúa, không để đứa nào tiếm ngôi được ...

Ðám thực khách cười rộ lên đồng tình. Bằng Vũ, nay là thư lại đội Tiệp Bảo, đổ dầu vào lửa :

- Tệ nhất là cái đám quan lại khoa bảng xưng là kẻ sĩ, miệng nói chữ Trung nhưng bụng thì chỉ biết chữ Lợi, đâm thọc, mưu này kế nọ, chỉ đợi Chúa băng hà là chia nhau lạm quyền ... Cứ vây lại, chặn gạo bỏ đói thì

Nhất sĩ nhì nông

Hết gạo chạy rông,

Nhất nông nhì sĩ

Mọi người trong tiệc thích chí reo :

- Nhất nông nhì sĩ. Ðúng đấy. Bọn sâu chữ có làm được gì ! Xốc vác việc nhà Chúa là chúng ta cả.
Chén vào lời ra, chẳng ai kiêng nể gì tên quan Chánh dường và Tuyên-phi. Có kẻ lại phao rằng Ðông cung Cán đã chết rồi, nhưng tiếng giữ kín, để Lý tiếm ngôi Chúa trước rồi mới báo. Nhưng Thế tử Tông thì sao ? Cán chết thì ngôi Chúa lại trao về Trịnh Tông chứ ? Liền có người nói rằng Tông đã bị Lý phát vãng về Sơn Tây, giao cho Quận Thạc Hoàng Phùng Cơ giam giữ. A, cái lão Quận Thạc cũng chẳng phải tay vừa. Biết đâu lão chẳng thừa cơ mang Tông về Kinh, lấy tiếng phù nhà Chúa mà đuổi Hoàng Tế Lý ? Những tình tiết bí hiểm, âm mưu lắt léo, tráo trở, ly kỳ kể ra hệt những sự kiện không thể chối cãi được. Nghe chán chê, Nhật một mình lững thững tản bộ về phía bờ sông, ngồi nhìn nước chảy. Dòng nước đục ngầu như nước tù cứ loanh quanh như quẫn, xô vào đâu cũng là bờ là bụi, rác rưởi lềnh đềnh.

Một lát sau, Nguyên Nhưng và Bằng Vũ cũng theo ra. Ngập ngừng, Nhưng hỏi :

- Dân kháo, lính kháo như thế, chắc Nội Mật viện nắm hết, sao không thấy động tĩnh gì ?

- Ðộng tĩnh gì được trước lời đồn như gió bay ? Nhật hỏi lại, rồi tiếp - ... Vả lại, từ ngày công tử Hoàng
Ðăng Khoa vào Phú Xuân, công việc của Nội Mật chắc cũng có phần lỏng lẻo ...

Bằng Vũ ngần ngừ rồi hỏi Toàn Nhật :

- Vạn nhất có gì xẩy ra, huynh liệu đứng ngoài xem hay muốn nhập cuộc ?

- Nhập để làm gì ?

Bằng Vũ như đinh đóng cột, chậm rãi :

- Ðể mở đầu cho cái thời « Nhất nông nhì sĩ ».

Chưa kịp đáp, Toàn Nhật nghe tiếng gọi Bằng Vũ. Một trung niên tay cầm quạt nhanh nhẹn bước tới, miệng tươi cười : « ... quí huynh cho Bùi Bật Trực này nhập cuộc với nhé ! ».

Bùi Bật Trực cũng người huyện La Sơn, xưa có học với Tiến sĩ Nguyễn Huy Oánh ở miệt Trường Lưu, làm Viên ngoại lang rồi mất quan, nhưng được Viêm Quận công cưu mang. Viêm Quận công là Quốc Cửu, đối với Chúa Trịnh Sâm là hàng bác, phú quí vinh hoa nhất nhì thiên hạ.

Trước kia, Trực lân la đến chơi với Trọng Thức và Toàn Nhật ở dinh Khương Tả hầu, viện tình đồng hương và cùng là con nhà danh giáo. Trực thích biện thuyết, than thân là viên ngọc quí ở chốn bụi đen, rất trọng Hàn Phi nên thỉnh thoảng lại mang lời Hàn Phi ra, bóng gió nói lên cái chí của mình. Hôm mừng thượng thọ của Trần Nguyên Nhưng ở bến Hàm Như, Bật Trực cũng có mặt, ngồi thì thào với đám cấm binh, vẻ khẩn trọng, lo lắng.

Một tối, Trực mời Toàn Nhật và đám Bằng Vũ, Nguyên Nhưng đến dự tiệc nhân dịp ăn đầy tháng đứa con trai út. Ðám khách quan gần hai chục người, trong đó có Gia Thọ làm thư lại cho Thế tử Trịnh Tông hiệân còn bị giam lỏng trong Nội phủ. Chè chén đến độ ngà ngà, Gia Thọ mớm lời xoay chuyện, lại đề cập đến việc tiếm ngôi Chúa, chủ tâm dò xem ý tứ. Thấy không ai chống, Thọ lửng lơ :

- Thế tử Tông nóng ruột, thấy xã tắc bấp bênh, nhưng thân cô thế cô, tính mạng lại đang nằm trong tay bọn nghịch thần, chẳng biết xoay sở thế nào...

Một người râu xồm đứng lên ồm ồm nói :

- Nếu Chúa băng hà, Thế tử có chính nghĩa mà đứng ra thì mới nên chuyện, chứ cứ co lại sợ chết, hỏi ai làm gì được ? Cấm binh Tam phủ là người từ đất « tắm gội » của bản triều, có ai nỡ để nghiệp nhà Vua nhà
Chúa rơi vào tay bọn hoang dâm vô đạo !

Thế là nhao nhao lên mỗi người một ý, bàn tán xôn xao. Bằng Vũ đứng dậy, hai tay vỗ vào nhau khiến mọi
người im lặng, rồi chậm rãi :

- Trong Kinh, quyền lực nào cũng phải dựa vào Cấm binh, kể cả Lý và Huệ. Vậy mà bọn ta là Cấm binh chứ còn ai vào đấy ! Thế thì có gì là sợ... Trong bảy đội, chỉ còn hai đội ưu binh là chưa rõ ý, chứ ai cũng chỉ phò nhà Chúa, đâu có hai lòng. Ðội Thị Kỵ thì nhỏ, thuận hay chống không là việc quyết định cho thành bại.

Quay về nhìn Toàn Nhật, Bằng Vũ hắng giọng:

- Riêng còn đội Trung Kính, anh em con nhà lính phân vân, chẳng biết Chưởng Cơ nghĩ sao ?

Cả bọn im lặng, mắt chăm chăm nhìn. Nhật mỉm cười, bỗng nhấc cả vò rượu lên tu ừng ực, tu xong nói :

- Các vị là bằng hữu, cứ theo nhân nghĩa mà làm thì Nhật này không chống !

Gia Thọ xen vào :

- Không chống nhưng không theo ?

Nhật trừng mắt, hỏi lại :

- Theo ai ? Theo gì ? Theo để làm gì ?

Bằng Vũ thấy không khí có vẻ găng lên, vội đứng dậy, nghiêm trang:

- Thưa các vị bằng hữu, Vũ này ở lính đã hai mươi năm, kể ra không gọi là ngắn được. Lính chúng ta xuất thân từ dân dã, gốc gác nhà nông, dẫu có tí chút học hành thì cũng không quên người làng xóm mình cày sâu cuốc bẫm, mang hột gạo hạt thóc về nuôi cả nước. Thời bình, cái ăn là từ mô hôi nước mắt của ta. Thời chiến, thì cũng lại xương máu của ta mang về để bảo hộ giống nòi, yên bề xã tắc. Thế mà từ ngày Vũ này biết nhìn biết nghĩ thì chỉ thấy dân dã chúng ta chịu sưu cao thuế nặng, còng lưng cam chịu sự o ép của đám cường hào đã lươn lẹo thông đồng với đám quan lại ở Phủ, ở Huyện, thật là cay cực không sao tả xiết. Vừa đây, dân hai trấn Thanh-Nghệ lại chết đói đầy đường, thây nằm rải từ sông Lam đến núi Tản, càng nghĩ càng đau lòng xót ruột...

Cảm động, Vũ nghẹn ngào nói tiếp :

- Thưa các vị, dịp này Cấm binh ta giữ nghiệp Chúa không để bị soán đoạt cũng là dịp ta tâu trình để xin bỏ hết sưu dịch, giảm tô giảm thuế trong ba năm, để dân đen được thở ra...Vậy theo ai, ta theo nhân dân. Theo gì, ta theo đạo nghĩa, đền bù kiêm ái những người khốn cùng. Theo để làm gì ? Ðể bắt đầu một xã hội công bằng cho kẻ tay làm thì hàm có quyền nhai, không để ai đi bóc đi lột mình...Vâng, một xã hội công chính, căn bản là nông. Còn tầng lớp Sĩ, Phú, Ðịa, Hào? Phải đánh tận gốc, trốc tận rễ...

Thời gian bỗng như chùng xuống. Lời Bằng vũ bay bổng mang sức mạnh một giấc mơ từ lâu đời. Cả đám thực khách cứ thế vỗ tay hò :

- Ðánh tận gốc, trốc tận rễ.

Nguyên Nhưng đứng đậy, vòng tay rồi nói :

- Các vị bằng hữu, về cứ nói cho mọi người tỏ cái đồng tâm, đồng chí của chúng ta, và hẹn ngày rằm lên chùa trên núi Khán Sơn cùng nhau cắt máu ăn thề.

Toàn Nhật là người ra về cuối cùng. Ðến cửa Bật Trực nắm tay :

- Chắc Võ huynh cũng bắt buộc phải nhập cuộc rồi.

Nhật cười khẩy, hỏi lại :

- Còn huynh ?

Trực thâm trầm nhìn lên, rồi thủng thỉnh :

- Nhập thôi !

Nhật nheo mắt hóm hỉnh :

- Ðừng quên mình là Sĩ đấy. Ðào tận gốc...

Bật cười, Trực nói như đùa :

-... rồi cũng có lúc họ cần người biết đọc biết viết chứ, phải không ?

Tiếng khò khè từ sập ngự xung quanh có treo những bức trướng thủy tinh mỗi lúc một gấp gáp. Ðặng Thị Huệ vạch trướng bước ra, tay vẫy một người nữ tì đứng gần, nói nhỏ vào tai. Lát sau, hai quan thị-dược vội vã bưng vào một bát thuốc sóng sánh màu đen biếc. Ánh sáng từ những ngọn bạch lạp để khắp phòng lung linh, chập chờn rọi vào những nét mặt căng thẳng, môi mím chặt, mắt nhìn xuống, im lặng. Tiếng khò khè bỗng to lên, tưởng sắp tắc nghẹn, rồi lại nhỏ xuống, rên rỉ, lê thê kéo dài ra. Huệ xốc nách Sâm, đỡ đầu lên. Mặt Trịnh Sâm lúc này không còn thịt, chỉ vêu vao trơ xương, hố mắt trũng xuống sâu như cái chén hạt huyền, miệng há ra hớp không khí, nhe hàng răng lêu nghêu khấp khểnh đen sịt. Một thứ mùi thối khó tả xông vào mũi. Nó thum thủm, lại lẫn vào hơi chua như khi trẻ con ợ sữa, rồi nồng nặc mùi vôi đổ trên một đống rác lâu ngày chưa tiêu. Sâm hé mắt ra, thều thào :

- Mời Thánh Mẫu vào ...

Khoảng ba khắc sau, mẹ già của Sâm vội vã đến, đứng bên cạnh sập, sụt sịt khóc. Sâm được đỡ người ngồi lên, mình dựa vào gối, nhìn mẹ :

- Con biết mình không còn ở lâu để phụng dưỡng mẹ, sắp về với cha nơi chín suối. Xin mẹ cứ yên hưởng
tuổi già, việc phụng dưỡng do Tuyên-phi và Tự -vương thay cho con ...

Thánh mẫu gạt nước mắt, ngần ngừ mãi, xưng « Chị » theo lệ nói với Chúa:

- « Chị » thương con xót cháu, mà chẳng làm gì được với mệnh Trời. Trước khi con về với tổ tông, « Chị » xin thưa một điều : Tự-vương còn bé, lại yếu đuối trong khi Tông, bị giáng xuống làm đứa con «út » , dẫu sao thì cũng chưa làm gì bại hoại, bất quá chỉ dại dột để bị lừa vào cái thế dấy loạn...

Thánh Mẫu nhìn Huệ, mím miệng tiếp:

- Nay, vì xã tắc và vì cơ nghiệâp nhà Chúa, « Chị » xin cho Tông tạm ngôi Chúa đợi khi Tự-vương lớn khôn, lại xuống nhận phận con «út » như giờ ...

Sâm xua tay, lả người ra. Huệ sụp xuống chân Thánh Mẫu, khóc to :

- Chúa đi thì tôi cũng xin chết, chẳng muốn sống nhục trong nỗi ngờ vực oan khiên. Phụng dưỡng Thánh
Mẫu đã có Tự-vương và các Ðại-thần, có hay không có tôi cũng chẳng sao ...

Sâm cố sức hổn hển :

- Mẹ lo cho xã tắc thì con không biết lo sao. Lúc này chưa nhắm mắt được cũng vì thế ... Thằng Tông định làm phản cả cha lẫn em, đưa ngôi Chúa cho nó thì sự nghiệp họ Trịnh tiêu tan. Biết con, nào ai hơn cha.
Thôi, xin mẹ về đi ...

Thánh Mẫu lui ra, bắt gặp cái nhìn tóe lửa của Huệ, bụng thót lại, không kìm được vãi ra ướt quần.

Sâm lại cho vời quan Chánh dường Hoàng Tế Lý, miễn lạy, chỉ tay cho ngồi cạnh sập. Lý tâu :

- Khải Chúa, còn những chuyện phải làm ngay. Một là xin Ðức Vua sắc phong cho Thế tử Cán làm Chúa, hai là thảo ra «cố mệnh» chỉ định một số Ðại-thần phụ chính cho Ấu Chúa.

Sâm giơ tay, chặn Lý :

- Tờ «cố mệnh» cậu lo thảo ngay. Ðòi cho ta Quận Khanh và Quận Hoàn vào.

Quận Khanh là Trịnh Kiền, em Trịnh Doanh, là vai chú của Sâm. Còn Hoàn đỗ tiến sĩ khoa Quí Hợi, trước làm Hữu- tri giảng, dạy Sâm học, rồi lên đến chức Tham Tụng ở tiền triều, nay đã cáo lão. Sâm nói :

- Chắp tay lạy chú, lạy thày. Con bệnh nặng, nay sắp lìa đời, muốn Thế tử Cán lên nối ngôi Chúa, xin chú và thày đồng tâm hiệp lực giúp cho.

Nói dứt lời, Sâm lả đi, Huệ phải đỡ lấy giúp Sâm đặt mình nằm xuống. Hoàng Tế Lý quì xuống dâng trình tờ «cố mệnh » nhưng Sâm chỉ xua tay lia lịa, miệng phùi bọt, lại thở khò khè. Khanh Quận công cầm bút phê vào những chỗ còn để trắng tên của bảy Ðại-thần phụ chính. Ngoài Hoàn và Lý còn thêm năm người. Ðó là Tứ xuyên hầu Phan Lê Phiên, Châu Quận công, Ðàm Quận công, Diễm Quận công và Thùy Trung hầu Tạ Danh Thùy, toàn là hàng quan thị gần gũi với Thế tử.

Khi Quận Khanh hai tay dâng trình lên bản «cố mệnh» thì Sâm mắt đã nhắm nghiền, miệng há ra hớp như cá hớp bọt.

Một quãng đời bốn mươi bốn năm quay về trong một chớp mắt. Sâm thấy một cậu bé trông giống mình. Nó
lấy nhựa mít dính lên đầu sào ngồi rình chuồn chuồn, miệng ê a nho nhỏ : « Chuồn chuồn có cánh thời bay ...». Rồi Sâm lại thấy Thái tử Lê Duy Vĩ. Nhìn vào mắt Vĩ, Sâm bảo : « Có Chúa này thì không có Vua ấy ». Vĩ cười nhạt. A, cười hả ? Sâm sai vào cung Vua bắt Vĩ. Trốn đi đâu ! Bỏ nó vào ngục. Chưa bõ. Chém. Vợ con nó ư ? Bắt, bắt ngay. Giam lại. Sâm mặc hoàng bào thắt đai đỏ dẫn đầu ba quân vào Phú Xuân. Mọi Tây Sơn đuổi Nguyễn Phúc Dương vào Gia Ðịnh, mặt bắc đâm ra bỏ trống. Xua quân vào lấy hết Hoan Châu. Cứù để chúng lục đục đánh nhau mặt nam. Phong hầu cho Biện Nhạc. A, cái phường gá bạc, quân vũ phu. Láo nhỉ ? Nó dám xưng Ðế. Ha, ha, thằng vua Mọi ... Mặc nó, ta đánh giữ Phú Xuân, đẩy về phương nam ắt nó phải vào diệt bọn Nguyễn Ánh. Chúng nó kiệt sức thì ta vào thôn tính cả hai. Lê mạt rồi. Cứ xem Hiển Tông bôi mặt diễn tuồng trong Hoàng cung để mà cười. Hai trăm năm nghiệp Vương, đã đến lúc nối tiếp bằng nghiệp Ðế cho họ Trịnh. A, Huệ ơi, Huệ yêu dấu ... Ừ, hôm nay ta làm ông hổ, được không
? Ta vồ nàng, lấy chân móng sắc cào vào nhé ?

Này, sao mày lại về đây Duy Vĩ ? Mày vẫn theo tao ám hả ? Tao cắt lưỡi mày, tao cắt lưỡi mày ! Vĩ mặt
xanh lè chẳng còn tí máu, cười nhạt :

- Ðã đến lúc này mà còn hung hăng sao, ta bảo cho mi biết, họ Trịnh chỉ đương được nghiệp Chúa mà
chẳng quá hai trăm năm. May thêm được hai ba năm nữa là cùng.

- Nói láo, tao đã thảo tờ « Cố mệnh », Tự-Vương được phù chính. Hoàng Tế Lý mưu cơ như thế, trời lại
đưa Lý cho ta dùng, ắt rồi sẽ dấy nghiệp Ðế cho mày xem.

- Thằng Cán chắc đâu là con mi. Mi có nghe lời thiên hạ đồn đãi không ? Nó là con thằng Lý đấy ! « Nhất
thiœ trục quần dương » , mi nhẹ dạ quá nên quên đi mất. Một con lợn rừng lại thêm vào một con rắn lục như Ðặng Thị Huệ, thì cái mạng con dê của mi đến ngày tuyệt... Mi có biết thuốc mi uống hàng ngày có độc dược không ? Chính Hoàng Tế Lý bày ra đấy... Nói ra, cho mi chết mà không nhắm mắt được, ha ha ha...

Lúc đó là giờ Mùi ngày mười ba tháng chín năm Nhâm Dần. Chiếc đỉnh đồng đặt giữa phủ Chúa tự nhiên rung rinh phát ra những tiếng ken két như người nghiến răng. Bỗng đâu cả trăm tiếng cú rúc ban ngày rờn rợn vang lên. Chiếc đỉnh đồng tự nhiên đổ lăn kềnh, rơi xuống vườn uyển, cắm sâu vào lòng đất.

Sâm oặt đầu, miệng thổ ra một cục máu bầm, mắt trợn trắng dã trong hai hốc đen đầy lệ. Nơi chiếc đỉnh
đồng rơi xuống, đất sụt sâu, nước ngầm tóe lên tuôn phùn phụt, lâu thành một cái ao. Còn cặp mắt Sâm, đúng là ai vuốt cũng không nhắm, tê cứng đi như làm bằng một loại kim màu sắt rỉ.

Nhật bực bội vung tay ném hòn đá xuống ven hồ. Những gợn nước tỏa rộng ra thành những vòng tròn, lan ra rồi tan dần vào mặt hồ chỉ lát sau là lại phẳng lặng, lung linh bóng cây cổ thụ rễ gân guốc trồi lên mặt đất, lòng vòng chạy tủa ra rồi đâm vào ven bực tam cấp lên chùa.

Từ ngày Thức trốn, rồi Mai bị bắt và cầm tỏa trong dinh Thế tử Cán, Nhật không đi lại chơi bời với ai, kín đáo dò xét đợi dịp cứu Mai khỏi chốn tù hãm. Việc cắt đặt đội Trung Kính để bảo vệ tam cung ngũ phủ đã vào nếp, Nhật mặc thường phục, bỏ thì giờ đi vào khắp nơi ngóc ngách của đất Kinh Kỳ. Khi đầu óc căng thẳng đến độ Nhật chỉ muốn đập phá cho hả, chàng lại mò đến chùa Trấn Quốc, một mình ngồi cạnh gốc cây sống hẳn đã nghìn năm nay, đợi nghe tiếng thỉnh chuông, để cho lòng theo tiếng ngân, bay xa, nhẹ nhõm.

Những cơn chán nản và bực bội ùa đến Nhật như cơn triều sông Nhị mùa nước lớn dấn vào bờ đê sồi sụt lở lói. Nhật lôi cây kiếm Hoàng gia ra, nhìn chầm chập vào sống kiếm có đổ chì, nghĩ ngợi mông lung. Bây giờ, Nhật chẳng còn nghi ngờ gì về gốc gác của mình. Nhưng cái gốc gác đó khiến đường gươm thứ nhất trong ba đường chiêu kiếm học được của Mishima mỗi ngày một chậm. Nhật lại nghe văng vẳng lời dặn «... có dứt bỏ được vọng niệm, căm hờn thì đầu mới liền lạc được với tay, và đường kiếm nhanh bằng vận tốc của suy tưởng, nghĩ đến đâu là kiếm phát ra đến đó ». Rồi hình ảnh người đàn bà quay lưng lại, tay quạt cho Nhật buổi trưa nắng ở miếu Ba Cô cứ chập chờn hiện về, chẳng phải chỉ trong giấc mơ, đôi khi như luẩn quẩn giữa ban ngày ban mặt.

Nhật nhắm mắt, mơ màng nhớ về thuở ở trại Bùi Phong. A, cái thời trong trắng. Cái thời tưởng đã bay khỏi tầm tay níu kéo của mỗi con người, nhưng rồi lại vẫn lảng vảng đâu đây, thoáng trong hương hoa bưởi, vẳng về từ tiếng ếch ven ao. Nhật thầm nhủ : « Thôi, về thôi... Cũng là biển cả với nương dâu, chốn Kinh Kỳ này như thế là đủ ».

Bỗng có tiếng hát lanh lảnh rợn người. Hát rằng :

Ta về, ta hát, ta chơi ...

Co chân xoạc cẳng đo trời ngắn cao ...

Nhật ngạc nhiên, lần theo tiếng hát đi về phía sân chùa. Một người đàn bà trạc tứ tuần, áo cánh vàng, chít khăn đen mỏ quạ, chân đi vòng, tay múa miệng hát, nước mắt nhỏ ròng ròng. Thỉnh thoảng bà ta ngưng bước, ngửa mặt lên trời gào : « Mẹ, Mẹ ơi ! », rồi lại tiếp tục :

... Kinh Kỳ sóng nổi ba đào

Nước dâng tám cấp lửa cao chín tầng

Bà ta bỗng đứng khựng người lại, thét lên:

- Mẹ ơi ! Thánh thần nay cũng hư nữa, nói chi đến con người !

Hai tay chắp, bà lại bất động đứng dưới bệ thần Bạch Hổ, lưng quay về phía Nhật. Không ngoảnh lại, bà ta đột nhiên gọi :

- Này anh ơi ! anh vào đây ...

Ở góc sân, một đứa bé gái trạc lên mười ngồi thụp xuống đất, bên cạnh một sư ông râu tóc bạc phơ. Họ nhìn Nhật, không nói. Nhật bước vào sân. Người đàn bà lại cười khúc khích :

- Anh lên bệ đây, cho em lạy chào... Cứ lên, không ai ăn thịt đâu mà sợ...

Nhật rón rén ngồi xuống cạnh bệ thờ. Bà ta lại vòng chân bước, miệng hát :

Trăm năm trong cõi người ta

Bên tài bên mệnh khéo là ghét nhau

Trời đầy kẻ trước người sau

Biển kia cùng với ruộng dâu, cũng là...

Nhật giật mình. Hai câu đầu là hai câu thơ của Nguyễn Du, cậu bé đã lên sống trên trại Bùi Phong cách đây hơn ba năm. Nhưng những câu này họa chăng chỉ có Thức biết, làm thế nào mà nó lại từ cửa miệng của người đàn bà kia vừa cất tiếng hát ? Còn hai câu sau ? Lạ quá ! Người đàn bà như đọc được tư tưởng của
Nhật vài phút trước, khi chàng muốn bỏ chốn Kinh Kỳ, vừa nói vừa cười :

- Này anh ơi, chưa về ngay được đâu ! Mà về thì rồi nhớ giúp ông Hoàng Mười, ba bốn năm nữa anh lại ra đây.

Dứt lời, bà ta xoay vòng, tay xòe ra múa may uốn éo, hát theo điệu Hồ Quảng :

Duyên chưa đành, nghiệp chưa dứt, ới ai ơi...

Cái cõi sân si nó rộng, nó nổi ba đào !

Nhật hoảng sợ, không biết ai là ông Hoàng Mười và chẳng hiểu làm sao người đàn bà kia có thể nói toạc ra một phần tâm thức của chàng. Bước về phía sư ông, chàng vòng tay chào, tai lại nghe :

- Ðấy, nhà em đấy. Còn con cháu kia là con chúng em ...

Nhật ngẩn người ra. Sư ông chỉ cười hiền lành :

- Mẹ nó điên, ông đừng chấp.

Mùi khói hương sực vào mũi ngây ngất. Chẳng hiểu vì lẽ gì, tự nhiên Nhật thấy nhẹ hẳn mình. Phải chăng phần số đã là tiền định, thì có xá gì, thành mây mưa nắng gió hay hổ báo chim chóc cũng là...

Cũng là ... cả biển xanh với nương dâu. Cũng là ... kẻ trước với người sau...

Nhật lững thững ra cổng chùa. Con bé con, mặt mũi lem luốc, cặp mắt nâu tròn lóng lánh, đứng đậy đi theo. Nhật lại nghe giọng lanh lảnh :

- Con ơi, chớ bỏ theo trai ...

Nhật bước nhanh giữa gió chiều trống trải. Từ xa vẫn cứ văng vẳng tiếng hát :

Ới ai ơi ...

Cái cõi sân si, nó rộng , nó nổi ba đào.

Chương 5
Kiêu binh

Xế chiều hôm Tĩnh-đô vương Trịnh Sâm lìa đời, Vua Lê Hiển Tông hạ sắc phong Trịnh Cán làm chúa, hiệu là Diễn đô Vương. Ðặng Thị Huệ và bảy vị quan Ðại-thần phụ chính cũng nhận được những lời phủ dụ từ Hoàng cung. Cán mặc sắc phục tước Vương, ra sập ngồi cho hai hàng quan văn võ lạy chào. Sau, Diễm
Quận công bế Cán vào Huỳnh cung ra mắt Thánh Mẫu.

Quan tài Sâm vẫn quàn đó, đợi phong Vương cho Cán rồi mới khâm liệm cho Sâm. Trong triều, chỉ một mình Tế Lý biết là Cấm binh họp nhau ở Khán Sơn, nhưng không có thì giờ đối phó. Lý chặc lưỡi khinh bỉ, trao cho Quận Châu chức Binh phiên trì sự và dặn phải cẩn thận.

Trên núi Khán Sơn, có lẽ có đến cả trăm người đến hội. Oai Lý còn lớn, nên ban đầu ai cũng dè dặt. Ðến khi bàn việc, không một ai lên tiếng. Bằng Vũ nhẩy lên đứng trên một mỏm đá, giọng kiên quyết :

- Gần như toàn thể Cấm binh Tam phủ ở trong quyền chỉ huy của chư vị có mặt ở đây. Lâm sự, ta chặt cầu cản đường cứu viện đường bộ từ Kinh Bắc và Sơn Tây. Mặt thủy, Ðinh Tích Nhưỡng có đến được cũng không đổ bộ nổi. Vả lại, họ có đến được Kinh cũng phải dăm bữa một tuần. Nếu ta xử sự cho gọn, bắt giết Huệ và Lý, rồi xin ngay Ðức Vua ban sắc phong Vương cho Thế tử Trịnh Tông, thì chỉ nội nhật là xong. Lúc đó, ai không nghe hiệu lệnh của Vua và Chúa là làm phản, bọn cứu viện nào dám đến nữa.

Ngưng lại, Bằng Vũ nhìn khắp lượt, nghiêm trang tiếp :

- Chỉ sợ anh em ở đây không đồng một lòng. Bây giờ trước Hoàng Thiên soi xét, ai tôn phù nghĩa tôi Chúa, quyết dẹp bọn tặc thần chuyên quyền, xin đứng sang bên phải. Ai chống, bên trái. Còn ở giữa thì xin cứ bình chân như vại, đừng có can thiệp.

Cả đám cấm binh ồn ào lên, rồi di động. Hai phần ba bước về bên phải. Còn lại đứng giữa trừ một người. Nguyên Nhưng há hốc mồm nhìn, thảng thốt kêu: « Sao vậy ? sao lại vậy ?».Trăm cặp mắt đổ dồn vào phía bên trái, và đã có người nắm đốc kiếm, miệng hầm hè. Người đó quần áo nho sinh, tóc búi, tay cầm quạt phẩy nhè nhẹ, đủng đỉnh bước lên đứng trên gò đất, nói rành mạch:

- Chưa được đâu ! Làm như cách Bằng Vũ nói là vội quá, dục tốc bất đạt. Hành sự chín chắn phải nghĩ đến khả năng bất thành, còn giữ đường mà lùi...

Giữ đường lùi đúng là đánh vào tâm lý đám Cấm binh thật ra vẫn còn sợ sệt. Họ nhôn nhao hỏi. Người cầm quạt nghiêm nghị :

- Bùi Bật Trực xin có một lời. Phàm làm việc, giữ được chính danh mà không mang hại là thượng sách. Ai cũng biết là Thánh Mẫu không đồng lòng việc phế Tông lập Cán. Hay nhất là bàn với Quốc Cửu Viêm Quận công, để ngài vào trình với Thánh Mẫu, và phát hiệu lệnh rồi mới bắt Lý và Huệ. Nếu thuận như vậy, Trực này xin làm con én đưa đường...

Ðám Cấm binh vỗ tay hoan hô, cho là diệu kế. Bằng Vũ gật gù rồi nói :

- Ngày khởi sự như vậy chưa biết. Tam quân lúc nào cũng phải sẵn sàng, khi nghe tôi vào phủ đường đánh ba hồi trống sau giờ cúng cơm buổi sáng là cứ việc tiến đến vây Chính-phủ và Vương phủ.

Ðám Cấm binh lại vỗ tay hoan hô, cho Vũ là đảm lược hơn người, cử Vũ cùng Trực đi gặp Quốc cửu.

Sáng hôm sau, trên đường đến dinh Quốc cửu, Vũ bảo Trực :

- ... có ý Quốc cửu và Thánh Mẫu hay không, đã cưỡi cọp rồi, xuống thế nào được !

Trực trả lời :

- Có càng hay. Không thì lại càng phải làm. Thành thì khối các vị Ðại-thần nhảy ra xin ăn theo, lo gì.

Quốc cửu là loại người vừa ngu vừa nhát, cứ ậm ừ, khuyên nên đến thẳng Huỳnh cung. Vũ và Trực đến, phao rằng Quốc cửu đã thuận và nay xin ý Thánh Mẫu. Bà ngần ngừ, biết là việc trọng đại, muốn trì hoãn và vời Hoàn Quận công vào tham khảo. Lúc đó, không biết kẻ nào đã thảo ra một tờ hịch, tựa là ¨ Tam Quân Phù Chính ¨, kể tội tiếm quyền, dâm loạn của Lý và Huệ, đòi truất Cán lập Tông. Hịch dán trên năm cửa ô, rồi chép ra truyền tay nhau đọc trộm, bàn dân xôn xao, có kẻ sợ Kinh sắp gặp đại biến, lục tục rủ nhau bồng bế về quê. Giá gạo cao vụt lên, và trộm cắp tha hồ hoành hành, bất kể luật pháp.
Hoàng Tế Lý gọi Toàn Nhật vào Chính-phủ, từ tốn hỏi Nhật về binh tình trong đội Trung Kính vốn có nhiệm vụ bảo vệ Tam cung Ngũ phủ. Lý đăm chiêu :

- Tin được bao nhiêu đầu lính ?

- Năm sáu trăm, Nhật trả lời.

Nhìn ra sảnh đường, Lý làm vẻ thản nhiên :

- Ðịch được bao nhiêu ?

Nhật thận trọng :

- Ba nghìn, ba nghìn rưởi.

- Bao lâu ? Lý cười nhẹ, nhướng mắt lên.

Ngần ngừ một lát, Nhật đáp, giọng quả quyết :

- Ba nghìn thì cả tuần, ba nghìn rưởi, bốn đến năm ngày.

Lý trầm ngâm nghĩ ngợi rồi xuất một nghìn lượng bạc ra cho Nhật để thưởng cho lính đội Trung Kính. Mặt khác, Lý đích thân phái người của viện Nội Mật lên Sơn Tây vời quân Hoàng Phùng Cơ, sang Hải Dương vời quân Ðinh Tích Nhưỡng và xuống Thanh Hóa vời đội chiến thuyền của Nguyễn Hữu Chỉnh.

Từ dạo anh mình là Nguyễn Khản được tha tội chết, chỉ bị Chúa Trịnh Sâm giam lỏng tại tư dinh Châu Quận công, Nguyễn Du đã lánh lên Tuyên Quang, tá túc nhà một viên võ quan cấp thấp. Năm sau, Du về trấn Sơn Nam, rồi thi đỗ Tam trường khóa năm Giáp Thìn. Vì đường xá xa xôi, Du ít tin tức, không hề biết là Ðặng Thị Mai bị giam hãm, và Trọng Thức phải bỏ trốn, trôi giạt chẳng biết đến nơi đâu. Mấy tháng gần đây, tiếng đồn đãi về khả năng binh biến ở Kinh lan xa, bàn đân ở các phiên trấn ngóng cổ chờ diễn biến. Du quyết định lần về Thăng Long, một mặt vì tò mò, một mặt vì muốn tìm giữ những tập bản thảo do chính mình trước tác đã để lại dinh Kim Âu, tư dinh của anh mình là Nguyễn Khản.

Hai hôm sau ngày về Kinh, Du đến dinh Khương Tả hầu nhưng Nhật vắng mặt. Ðành ngồi đợi, Du nhìn đám Cấm binh mặt mũi nghiêm trọng, biết là tiếng đồn đãi cóù xác cứ. Bố-già, người lính lâu năm nhất, cũng mò tới tìm Nhật. Ông ta nhìn Du đăm đăm, buồn rầu :

- Ðời lính tôi suốt mấy mươi năm rồi, đến nay đâu lẽ nào phải cầm gươm cầm kiếm đánh đấm với chính anh
em lính chúng tôi... Ðánh giặc, lúc nào tôi cũng sẵn sàng, nhưng ai nỡ lòng nào đâm chém vào ruột vào
thịt mình.

Nhìn cánh bướm vàng chập chờn trên hàng dâm bụt màu đỏ tươi, Du bâng quơ an ủi cho có lệ người lính già nhăn nhó đang khổ tâm lo lắng. Nhật về, thấy Du, vội ôm chầm lấy, quên Bố-già đứng lóng ngóng bên cạnh. Uống chén nước hàn huyên xong, nhìn Nhật, Du nhắc lại lời Bố-già. Lúc ấy, Bố-già chắp tay, giọng trang trọng :

- Quan Chưởng cơ, chỉ có ngài mới cứu được việc anh em lính chúng tôi phải đâm chém lẫn nhau. Bọn Bằng Vũ, Nguyên Nhưng hăng lắm, không cản được, lại có Bật Trực thúc vào. Lính Tiền Hùng đã từng tốp vào Kinh, bỏ hết phòng thủ tuyến sông, tiếng là về cứu Ấu Chúa. Ngoài ra, cơ đội Nhượng Trung, Hậu Dũng và Tiền Ninh cũng phối hợp trấn đóng những chỗ hiểm yếu, hăm hở đợi tiếng trống hiệu... Riêng đội Trung Kính và Thị Nội tả quân do Chưởng cơ chỉ huy là không động tĩnh gì, vẫn tiếp tục phận sự bảo vệ Tam cung Ngũ phủ. Nay, anh em ăn thề trên núi Khán Sơn phái tôi đến xin ý của Chưởng cơ, và cầu trời cho khỏi đổ máu, là phúc cho lính...

Nói đến đấy, Bố-già sụp xuống quì lạy Nhật, khóc ròng ròng. Nhật vội đỡ Bố-già lên, mủi thương, nhẹ nhàng:

- Xin lão đứng dậy. Nhật này cũng chẳng ưa gì mùi máu.

Nghiêm nghị nhìn mớ tóc lởm chởm bạc mọc như nổi loạn trên đầu người lính già đã suốt một đời chinh chiến, Nhật trầm giọng :

- Cuộc nội chiến này không tránh được nữa rồi. Ngay như quan Chánh dường có lập thế tử Tông lên ngôi Chúa, ta cũng đồ rằng chưa đủ để tránh việc binh đao ...

Thở dài, Nhật quay sang Du, hỏi :

- Có phải đường huynh là Nguyễn Khản đã về dinh Kim Âu rồi chăng ?

Du lắc đầu. Bố-già chen vào :

- Không, Khản dẫu ở nhà Châu quận công nhưng cả hai đều biết rõ tình thế. Bây giờ, chỉ chờ ý quan
Chưởng cơ rồi anh em lính chúng tôi mới dám động tĩnh.

Nhíu mày lại, Nhật nhăn mặt nhìn ra góc vườn, nét đăm chiêu khiến chàng như già đi hàng chục tuổi.
Bố-già tần ngần, nước mắt lại ứa ra, giàn giụa chảy theo vết nhăn đã thành rãnh trên khuôn mặt phong
trần sạm màu nắng gió. Du ngần ngừ, nói trong cuống họng :

- Cứ đổ một giọt máu là phí đi một giọt, dẫu là của bất cứ ai.

Nhật vùng đứng dậy, vỗ nhẹ lên vai Du. Ôm vai Bố-già tiễn ra cổng, Nhật nhìn lão, nói:

- ... Ta không phụ ai, nhưng cũng chẳng để ai phụ mình. Lão về bảo họ như vậy.

Trong thời gian đó, Thánh Mẫu đã gặp Hoàn Quận công. Hoàn đồng lòng, xin Thánh Mẫu hạ chỉ dụ Hoàng Tế Lý, hứa sẽ thuyết phục đám Ðại-thần phụ chính. Chỉ của Thánh Mẫu như sau:

« Ấu Chúa ốm đau, trong nước bàn dân lo sợ nghi ngờ. Tướng quân nếu lấy xã tắc làm trọng, thì nên tạm cho Thế tử Tông nhiếp chính để yên lòng người. Chờ đến khi nào Ấu Chúa trưởng thành, Tông sẽ trả lại
chính quyền, lui về làm tôi...»

Tế Lý lĩnh chỉ, đọc xong, lắc đầu cười nhạt. Khạc vào cái ống nhổ bằng đồng để dưới chân, Lý lẩm bẩm « ... rõ là dơ. Nghi ngờ gì thì lại chẳng dám nói ». Ngồi ngay ngắn trước thư án, Lý tự lấy bút nghiên ra thảo :
« Lý tôi quì lạy dưới cửa thánh Mẫu. Thánh Mẫu đã lo đến việc lớn của xã tắc, tôi đâu dám không vâng lời ? Chỉ hiềm là việc đó không phải ý của Tiên Vương. Lý tôi khi được Tiên Vương gửi gấm, ngài đã dặn dò cặn kẽ, lại có tờ «Cố mệnh» làm bằng. Nay quan tài còn quàn ở đây mà thay đổi mệnh ngài, lòng tôi nghĩ sao cho đang ? Vậy xin việc đó hãy để sau rồi sẽ liệu tính ... Vả chăng, trong thiên hạ sau này nếu lo âu sẽ hết lo, nếu ngờ vực sẽ hết ngờ, dám xin Thánh Mẫu cứ yên tâm... »

Ðưa thư hồi âm về Thánh Mẫu xong, Tế Lý gọi hai hàng quan văn võ vào triều ngay buổi chiều hôm đó tại Nội phủ. Ðám Thị Nội quân được chia ra canh gác, mặc quần áo trận, cứ sáu thước có một người lính, gươm giáo sáng lòe. Ðội Nội cuông chấn mặt Bắc, Nội dực mặt nam, còn phía đông và tây do đội Nội nhưng và Nội kiệu phòng thủ. Ở vòng ngoài, những dinh thự lớn như dinh Kim Âu, dinh Trung Nhuệ đều được canh gác cẩn mật bởi cơ đội chủ lực Trung Kính. Ðám Thị-kỵ quân được giao giữ cung Vọng Hà, cung Tây Long và cung Trung Hoa ở trung tâm, có thể dùng như lực lượng trù bị sẵn sàng cứu viện những mặt quan yếu.
Cuối giờ Thân, các quan đã đủ mặt, ngồi hai hàng ghế. Trên trướng cao, chiếc ngai Chúa để trống, nhưng bên cạnh có sắp một chiếc ghế cho Ðặng Tuyên-phi. Ở hàng đầu, Tế Lý liếc mắt nhìn kiểm điểm, thấy thiếu Hoàn Quận công. Quốc cửu Viêm Quận công cáo ốm, không đến. Lý trình bày sự thể, cắt đặt công việc cho Châu Quận công là Binh phiên Trì sự, đưa ra bằng chứng có người tố Viêm Quận công định làm loạn và yêu cầu chư quan đình nghị để trị tội. Lý chau mày, trầm giọng :

- Chỉ mai kia là có biến, hàng quan võ các ông cũng nên một phen hãn mã, thử xem nghề cung kiếm còn phong độ hay không ... Phía quan văn, các ông bảo người nhà sửa soạn đao kiếm để tự phòng vệ, chớ có khinh trọng.

Hai hàng quan xì xào, hư thực, bấm bụng nói cứng nhưng lo ngay ngáy, ai nấy nhấp nhổm chỉ muốn về nhà. Trời sập tối, có kẻ khuyên Lý mang nghĩa sĩ vào phủ hộ vệ cho mình, có kẻ lại bàn là Lý nên ẵm Ấu Chúa trốn khỏi Kinh rồi gọi quân ở ngoài vào bắt bọn phản loạn. Lý chỉ im nghe, rồi chắp tay cảm tạ các quan, giọng khẳng khái :

- Xưa nay, hư thực trong chuyện binh biến thế nào ai mà lường được. Dẫu sao, cứ để thong thả, không việc gì phải mất bình tĩnh .

Lý cười, ung dung, tiếp :

- Ví bằng việc gấp quá, không trị nổi bọn làm giặc, thì tôi đã vâng mệnh Tiên Vương, sống thác cũng cam, có chi mà hốt hoảng ?

Ðêm hôm ấy, Tế Lý vẫn mang vài người hầu như thường lệ vào ngủ ở Phủ đường nhưng cho người đi gọi Toàn Nhật. Chờ đến canh hai không thấy, Lý bắt đầu lo, cả đêm không chợp mắt.

Tiễn Bố-già xong, Nhật thấy đầu choáng váng, vào nhà trong đặt mình xuống giường. Mấy hôm nay, trời ẩm đục, âm u, mây trĩu xuống như bị ai trì kéo. Chợp mắt được một lúc, Nhật nghe tiếng người gọi tên mình. Nhật choàng dậy. Cạnh cửa sổ, bóng người đàn bà ở miếu Ba Cô trên Phố Hiến thấp thoáng. Lưng quay lại, giải áo trắng bung phần phật mặc dầu không có gió, tóc xõa ra đằng sau như uốn như lượn, người đàn bà như chực bị bốc lên không trung. «Con ngoan, mẹ về với con nhưng chẳng được lâu, lại sắp phải đi đây ! ». Nhật đứng dậy, mắt căng ra, gọi : « Mẹ đừng đi nữa, ở lại để con báo hiếu mẹ ... Tội nghiệp thân mẹ ». Tiếng khóc thút thít, bắt đầu còn nhỏ, sau lớn dần rồi choáng ngợp thành những tiếng nấc, lẫn vào dăm câu nói tức tửi : «... báo hiếu, con ơi..., mẹ chờ... ». Cánh cửa sổ phềnh ra, đen ngòm, hút lấy giải áo trắng vẫn phần phật bay, mờ dần rồi tan biến như khói. Nhật gào lên : «Mẹ, mẹ ơi... »

Khi Du vào lay, Nhật tỉnh lại, thấy mặt mình lã chã nước mắt, người nhễ nhại mồ hôi. Du nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh, lo ngại :

- Chắc huynh ốm mất rồi.

Nhật nhắm mắt định thần một lúc rồi đứng dậy ra sân sau. Chàng rút gươm chém ba đường, cứ thế chém, vừa chém vừa hét. Không biết vì lẽ gì, đường gươm thứ nhất lại chậm hơn trước. Nhật ngừng, nói với Du : « Du xem mắt ta có ánh căm hờn không ? » rồi lại tiếp tục chém.

Tối đến, Du về dinh Kim Âu. Toàn Nhật lên ngựa đi thẳng về phía sông Nhị. Quả thật những điếm canh nay bỏ trống, lính Tiền Hùng đã kéo nhau vào Kinh. Ngồi ven sông, Nhật nghe tiếng nước rì rào như tâm sự những nỗi niềm từ vạn đại. Chàng nhắm mắt, liên tưởng đến khoảng thời gian vừa qua. Khi quan Chánh dường trao cho chàng thanh kiếm « Hoàng gia », Nhật biết là gốc gác mình quả có rễ rợ sâu xa với họ Hoàng. Cha chàng là ai ? Là Quận Việp Hoàng ngũ Phúc ? Hay chính là Hoàng Tế Lý ? Nếu là Quận Việp thì thôi, đã chết rồi, vậy chẳng qua là chàng mồ côi cha từ nhỏ ! Nhưng nếu là Tế Lý ? Thế có nghĩa là kẻ phụ bạc mẹ chàng, khiến mẹ phải trầm mình chết để rửa nhục, sờ sờ còn đấy, quyền cao chức trọng, thế lật thiên hạ như trở bàn tay. Và bóng mẹ chàng ở miếu Ba Cô còn luẩn quẩn quanh đây, phải chăng là để nhắc nhở chàng mối hận câu chuyện ngày xưa mà nước sông Lam vẫn chưa rửa sạch ?

Nhật bần thần, tay mân mê đốc kiếm, lòng phân vân. Hình ảnh Bố-già và những giọt nước mắt một người không muốn máu lính vấy lẫn tay lính lại hiện ra. Ngày mai sự thể diễn biến ra sao ? Chàng thừa biết là lính đội Trung Kính sẽ nghe lệnh, chắc chắn sẽ chống trả khi bị tấn công. Từ ba hôm nay, họ khẩn trương chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Nếu việc binh đao không tránh được, số nạn nhân hẳn là không dưới vài ngàn. Nhưng làm thế nào đây ? Lúc can qua, Hoàng Tế Lý sẽ trực tiếp chỉ huy cả ba cơ đội Thị Nội, Thị Kỵ và Trung Kính. Con người Lý chiến trận đã quen, chắc gì bọn Bằng Vũ, Nguyên Nhưng thủ thắng được. Hơn nữa, quân biên ngoại hiện cũng đã rục rịch về Kinh mang danh nghĩa phù Chúa. Xương máu hàng vạn người sẽ đổ ra ! Nhưng để làm gì ? Cho ai ? Nhật chép miệng, thở dài. Chắc chắn là không phải cho những người phải liều mạng mình vào chuyện xương rơi máu đổ !

Nhật nhìn dòng sông, miệng thầm gọi : « Nước, nước ơi ! cho ta xin một lời khuyên. » Mắt rưng rưng, chàng ngửng lên trời tìm một ánh sao đêm. Không, không có một vì sao nào hiện ra chỉ lối.

Nhật nhắm mắt, cố lôi trong óc mớ chữ nghĩa đã học xem có gì giúp được cho chàng lấy được cái quyết định cam go này. Không, vẫn không. Không có thứ chữ nghĩa nào đặt lên bàn cân, một bên là máu xương hàng trăm hàng ngàn người, một bên là cha chàng, cho dẫu rằng cha chàng có phụ rẫy, bức tử mẹ chàng.
Phải chăng có thầy chàng, thầy sẽ nói gì ? Phải chăng có Trọng Thức, Thức sẽ khuyên gì ?

Nhìn sang bên kia sông, Nhật bỗng thèm bơi qua, rũ hết đi mọi vướng bận mặc cho cán cân nghiêng thế nào thì nghiêng, đổ thế nào thì đổ. Ðầu nóng lên đến bốc khói, Nhật rút từ sau lưng cây kiếm võ sĩ do Mishima tặng, rồi vừa hét vừa chém, tiếng xé gió nghe đến buốt xương lạnh thịt. Chàng chém cho đến độ tay mỏi nhừ, óc rỗng tuếch, mồ hôi đổ ra ướt hết hai lần áo. Ngồi xuống vệ cỏ, Nhật nhắm mắt lại. Quái lạ, sao chàng thấy dòng sông dưới kia bỗng thành một dòng sông máu đỏ lừ lừ, cú lững lờ trôi đi.

« Ðổ một giọt máu là phí một giọt », tiếng Du văng vẳng từ đâu đưa lại. Phải, có phải thế chăng ? Câu trả lời bẩy bật người Nhật dậy.

Phóng ngựa vào trung quân của cơ đội Trung Kính ra quân lệnh xong, Nhật đến dinh Kim Âu nơi Du trú ngụ chứ không về nhà. Khoảng canh hai, những tốp quân cứ mười người một từ ba cửa ô Ông Thánh, Trường Bản và ô Cầu Giấy lẳng lặng chia nhau tản ra ven đô. Họ đi ngược lên bến Tây Long, giữ bến Hàm Như, bến Thúy Ái cho đến bến Thanh Trì.

Sáng ra, trong Kinh im ắng đến ngơ ngác. Hàng dân sợ, không họp chợ, nhà nào nhà nấy đóng chặt cửa ngõ. Người kẻ chợ thấp thỏm, chờ đợi một biến cố đến từ sự quái ác của vần xoay. Trời lại mưa tầm tã, nhìn ra một màu trắng xóa, như sắm sửa tang ma cho những thân phận bị xô đẩy vào vòng rủi may đao kiếm.

Sau giờ cúng cơm, ba hồi trống chín tiếng trong Phủ Chúa chợt thúc lên rộn rã. Ðột nhiên, tiếng reo hò vang dội từ bốn phía nổi lên. Sáu người lính trong đội Thị Nội vây Bằng Vũ lại, trói giật cánh khuỷu, đẩy vào sân Chính phủ. Ở bên ngoài, một đám lính Tam phủ kéo ra, gươm giáo loảng xoảng, vừa đi vừa hò hét, tiếng chân dậm trên đất thình thịnh. Quận Châu ra lệnh đóng chặt cửa Chính-phủ và Nội-phủ, hớt hải gọi lính Thị-kỵ ra tiếp sức với đội Thị Nội, rồi báo Hoàng Tế Lý :

- Lạ thật ! Không còn bóng lính nào của cơ đội Trung Kính cả !

Bụng hoảng sợ, nhưng lại lấy vẻ ung dung, Lý cười bảo:

- Ðừng lo, việc quân ta đã xếp đặt đâu đấy rồi ..

Quận Châu đi ra lắc đầu, mặt tái ngắt. Ðiệu Bằng Vũ bắt quì trước thềm, Lý cao giọng hỏi :

- Mày đánh trống làm hiệu dấy loạn, vậy làm loạn để đạt mục đích gì ?

Bằng Vũ vùng mình đứng dậy, miệng hiên ngang nói :

- Ta không làm loạn. Kẻ làm loạn là bọn lập ra Ấu Chúa để tiếm quyền rồi phá nát cơ nghiệp nhà Chúa !

Lý bình tĩnh :

- Bay có bao nhiêu lính mà làm loạn nổi ?

Bằng Vũ ngửng mặt dằn giọng :

- Hỏi cung ta à ? Ðã vào đây, ta nào sợ gì cái chết ! Nhưng để ta bảo cho mi biết, bọn ta là lính đất «tắm gội » của nhà Chúa, đã đồng tâm với nhau từ hai trấn Thanh-Nghệ cho đến tận Tuyên Quang, Hà Bắc ...

Lý quát :

- Giỏi đấy ! Chư Ðại-thần phụ chính, ta phải chém đầu thằng tặc này, bêu lên làm lệnh cho ba quân để giữ phép nước !

Lúc ấy, Tạ Danh Thùy đứng ra can, trong bụng là tìm cách cứu lấy thân mình nếu vạn nhất không thắng được bọn lính Tam phủ, nhưng ngoài mồm lại nói :

- Giết một đứa như tên đánh trống này thì lấy đâu là đầu mối để bắt bọn đầu đảng ?

Lý chỉ cười nhạt, ra đứng ngoài lan can nhướng mắt xem xét tình hình. Vẫy tay gọi gia nhân, Lý thì thào vào tai, rồi vào thảo tờ khải :

« Lý tôi kính tâu : đám ba quân nổi loạn làm cho Kinh khuyết náo động. Tôi xin vâng lĩnh mệnh Chúa đem quân giết chúng, nếu được, ấy là nhờ oai lĩnh nhà Chúa, nhược bằng không, tôi đành liều chết để xuống dưới âm cung ra mắt Tiên Vương ».

Trao tờ khải cho đám phụ chính, Lý ung dung nói : «... Cứ yên tâm, đâu sẽ vào đấy ! » rồi lên ngựa trẩy về tư dinh của Trịnh Cán với sáu người võ sĩ hộ vệ.

Bấy giờ, Ðặng Tuyên-phi và Diễm Quận công đã chực sẵn chờ Lý. Huệ cười khẩy, nói mát :

-... quan Chánh dường tính toán thế nào để tam quân mở hội mừng Tân Chúa vui vẻ đến như vậy !

Lý lẳng lặng đi trước, Diễm ẵm Cán, Huệ và dăm ba tì nữ đi sau, đến trước cửa dẫn vào đường hầm bí mật được ngụy trang sau một cái tủ chè bằng gỗ mun rộng bằng nửa bức tường. Lý mở tủ, tay vặn ba cái khoen bằng đồng, sai võ sĩ đẩy tủ sang một bên. Cửa hầm rộng vừa một người đi lờ mờ hắt ánh sáng lên. Ðường hầm đó sẽ dẫn vào nghĩa địa cạnh bến Tây Long. Lý tính rằng Ấu Chúa và Ðặng Tuyên-phi có thể lấy thuyền con sang tả ngạn sông Nhị, từ đó tắp lên Kinh Bắc rồi liên lạc với Quận Thạc là Hoàng Phùng Cơ đang chuyển quân về Kinh cứu giá.

Ðợi cho bọn người tùy tùng Ấu Chúa lục tục vào hầm, Lý đóng cửa, đi ra gọi đám võ sĩ cận vệ đã nai nịt gọn ghẽ. Ghé vào tai tên Chưởng đội, Lý dặn dò, nét mặt vẫn bình tĩnh nhưng giọng nói đã có chút căng thẳng. Vẫy tay, hai tên phu lực lưỡng vai khiêng một hòm vàng cong người từng bước đi theo Lý vào căn phòng có cánh cửa bí mật. Ðang làm động tác mở cửa hầm, Lý chợt giật nẩy người, lùi ngược lại, quát : « Ai ? ».

Từ cửa hầm, một người khoan thai bước ra, lưng gài kiếm dài, tay cầm kiếm ngắn, vai đeo khiên. Tế Lý sững sờ rồi thét lên:

- A ! Toàn Nhật, là ra ngươi ...

Nhật nghiêng người thi lễ, miệâng cười buồn buồn :

- Kính chào thượng quan, đội Trung Kính đã chờ Ấu Chúa ở ven sông để xa giá.

Nhật nghiến răng, rành mạch :

- Nhưng thượng quan là rường cột, đâu bỏ đi như thế được!

Lý tái mặt, tay nắm vào đốc kiếm. Nghĩ thế nào, Lý lại bỏ ra, giọng như van vỉ :

- Nhật con, con cầm thanh kiếm Hoàng gia do tổ phụ truyền lại là để giết cha sao ?

Nhật nhìn lên trần, gằn từng tiếng, lạnh lùng :

- Tôi họ Võ, đẻ ra chưa đầy tháng thì mẹ tôi trầm mình trong dòng sông Lam. Sống với ông ngoại đến năm mười hai, ông tôi mất. Từ đó, tôi về làm nghĩa tử của La Sơn Phu tử họ Nguyễn, làm gì có máu mủ với họ Hoàng ?

Toàn Nhật vung tay ném về phía Tế Lý, miệng tiếp :

- Quan Chánh dường nhận lầm người, đây xin trả lại ngài thanh kiếm !
Tế Lý bắt lấy, rút ra khỏi bao, nhìn chằm chặp vào sống kiếm, rồi bật cười não nùng, miệng rên : « Ới oan gia, hỡi oan gia ... »

Sáu người võ sĩ đứng hai hàng quanh Lý ngẩn ra như phỗng, không biết cư xử thế nào, đưa mắt nhìn nhau.
Chợt Lý quát :

- Thôi thì đành ... Giết nó cho ta!

Ba người võ sĩ lừ lừ tiến lên, tay đao sáng quắc, rồi bất ngờ xông vào. Lóe lên ba lằn sáng và một tiếng hét. Toàn Nhật thoắt đã trở về vị trí cũ, thanh kiếm cũng lại bỏ vào bao giắt sau lưng. Một thây người đã mất đầu đổ xuống như thân cây mục, máu phun phì phì. Còn lại hai võ sĩ. Họ thất thần, rồi gập xuống, theo vết chém xẻ đứt bảo giáp từ trên xuống dưới và từ trái sang phải.

Lý kinh hoảng rú lên, rồi quát : « Bắn, bắn nó ... ». Ba người võ sĩ còn sống vừa đưa tay ra sau lấy súng thì Nhật xoay người hất ngược cánh áo. Trên mu bàn tay cả ba võ sĩ, ba đồng chinh cạnh mài sắc ghim vào, máu ứa ra nhỏ giọt xuống sàn đá hoa. Họ thất sắc, đứng như bị thôi miên, ngẩn người ra nhìn.

Nhật lại nhẹ nhàng :

- Ba vị không hại Nhật này, thì không lo Nhật hại ba vị, xin đi đi.

Khi họ lùi ra, Tế Lý cũng liền chân theo, vừa bước vừa lẩm bẩm những gì không ai nghe rõ.

Cắm đầu chạy luồn qua những luống hoa thược dược trong vườn uyển, Lý và ba người võ sĩ trở lại Chính-phủ. Bọn quan Ðại-thần phụ chính ngơ ngác chờ Lý, nhao nhao lên kêu. Quận Châu báo vào là loạn binh đang đục tường để vào phủ. Lý ngầm tính trong bụng là sẽ trì hoãn bằng cách nhậân đòi hỏi đưa Tông lên ngôi Chúa, nhưng bó buộc phải chờ sắc phong của Vua Lê cho thuận danh nghĩa. Hét quản tượng đưa voi ra, Lý nhảy lên, sai thúc chiêng. Bấy giờ, Quận Châu đã mở toang cổng phủ, đám binh Tam phủ kéo nhau vào đầy sân, không có trật tự nào, vừa chen vai thích cánh, vừa la hét vừa chửi tục. Lý tuốt gươm đứng trên lưng voi, từ từ đi ra, quát :

- Bớ tam quân, các người là lính đã mấy đời ơn Vua ơn Chúa, có chi không toại chí thì cứ đề bạt qua chư quan, việc gì mà phải mất phép nước mang tiếng loạn tặc ...

Vốn sợ oai Tế Lý, lại chẳng biết đầu suôi đuôi ngược thế nào, đám binh Tam phủ kéo nhau ngồi bệt xuống đất. Nhân thế, Lý đánh thêm một đòn tâm lý, lập lờ tiếp :

- Nay, ta bảo cho biết, lính tráng là để đi dẹp giặc chứ không phải đi làm giặc. Cơ đội Trung Kính đã vây quanh từ ven đô trở vào, nhưng ta không nỡ nồi da xáo thịt, nên không cho hành động sợ làm máu đổ vô ích ... Vậy chư quân ai về đội ngũ nấy, làm tờ khải lên triều đình, việc gì ta cũng sẽ cất nhắc cho ...

Ðám lính hoang mang, nhìn nhau, rồi đùn Bố-già ra. Vị lão binh này đi đến trước chân voi, quì xuống, nói lớn:

- Bẩm Chánh dường thượng quan, kẻ hèn này là Hài đã suốt đời làm lính, một lòng ân nhà Chúa, và chỉ mong giữ yên xã tắc chứ đâu muốn dấy loạn thành ra bọn tặc phản...Trình quan, cứ như chỉ dụ của Thánh Mẫu là tạm lập Thế tử Tông vào ngôi Chúa, đợi cho Ấu Chúa trưởng thành rồi trả lại quyền bính, thì bọn lính tráng chúng tôi cắn cỏ ngậm vành đội ơn bề trên, và xin tha ngay tội náo động cung khuyết, ai về cơ nấy lập tức. Bằng không thì…

Nói chưa dứt lời, bỗng con voi rống lên, lấy vòi cuốn lấy Bố-già tung bổng lên trời rồi quật xuống. Thì ra có kẻ lấy kích đâm vào bụng voi, nó nổi khùng, phản ứng nhanh khiến quản tượng không kịp kìm lại. Ba quân nhốn nháo đứng cả dậy, ào ào ném thương, ném kích vào mình voi, miệng la hét vang trời át tiếng gào của Lý. Quản tượng bị câu liêm ném lên giật xuống đất và bị ba quân dẵm chết tại chỗ. Con voi lùi ra sau, luống cuống, xoay vòng vòng. Lý kêu : « Bằng lòng, ta bằng lòng ... » nhưng nào có ai nghe nữa. Năm sáu cái câu liêm ném lên cùng một lúc giật Lý ngã từ mình voi xuống đất. Chỉ hai phút sau, Lý đã là một cái xác không hồn, đầu bị đập nát, óc phòi ra trắng hếu.

Có một kẻ lấy đại đao nhè cổ Hoàng Tế Lý chém hai nhát. Cổ không đứt, hắn nhay qua nhay lại lưỡi đao, mồm văng tục. Thấy thế, một kẻ gạt hắn ra, ngồi xổm thọc kiếm vào khớp xương cắt như đồ tể đang sẻ xương lóc thịt trâu bò. Lúc chiếc đầu lìa ra khỏi xác, lại một kẻ khác lấy đầu ngọn giáo cắm vào, rồi đưa lên cao, miệng hò như khi hát đúm.

Ðám lính rầm rập bước theo ngọn giáo cắm đầu Hoàng Tế Lý, vừa đi vừa hò hét như hổ beo trong cát bụi mờ mịt. Riêng có hai kẻ, mặt mũi gân guốc, mắt mầu đỏ đục, chạy ào lại lôi cái xác không đầu vào một góc. Họ cởi giáp, lấy dao thọc vào, miệng hềnh hệch cười, tay móc ra một buồng gan nóng hổi. Một kẻ liếm môi tiếc rẻ nói : «... Chà, phải chi có cút rượu ! »

Trưa hôm lính Tam Phủ kết thúc được thời lạm quyền của Hoàng Tế Lý và Ðặng Thị Huệ, trời bỗng đột nhiên bừng nắng sau một cơn u ám kéo dài cả tháng. Hàng dân kháo nhau rằng đấy là điềm thái bình.
Không hẹn, họ kéo nhau ra chật phố, cứ thấy bóng lính là thi nhau hò reo. Người thổi cơm, kẻ nắm xôi, mang ra giúi vào tay lính. Họ đặt bàn thờ, cắm hương, hăm hở đợi xem Tân Chúa. Không khí giải phóng khỏi những tù túng bốc những giấc mơ đổi đời lên chín tầng mây trắng.

Bằng Vũ vào Vương phủ tìm Trịnh Tông, quì xuống :

- Xin Thế tử ra mắt hàng dân. Trăm họ đang chờ đợi, không phụ lòng họ được.

Lính Tam phủ chia nhau đội Trịnh Tông trên một cái mâm đồng, vừa đi vừa reo hò, cười nói vang vang, hô to nào là « Cách Mạng », nào là « Nông chế », nào là « Ðất trả người cày ». Bàn dân dẫu không hiểu gì cũng vui miệng hô theo. Kinh đô nhộn nhịp hẳn lên, chăng đèn kết hoa và đốt pháo như ngày Tết.

Ngay đêm hôm đó, dân hàng phố mở hội, phường nào cũng chăng đèn, trống cái trống con đánh lên rộn rã. Lính Tam phủ được vồ vập săn đón và nhìn với con mắt đầy ân nghĩa. Mới chỉ ngày trước, lính lạnh lùng, cứ theo lệnh trên như máy mà thi hành, dẫu oán than chi thì cũng mặc. Dân sợ họ, lảng tránh, khép nép, đi ngang thường cúi đầu không dám nhìn. Bây giờ, trái ngược hẳn lại. Người dân mong đợi thay đổi nhìn những người lính vần xoay thế cục một cách hoàn toàn khác hẳn. Vừa được giải tỏa tất cả những uẩn ức thầm lặng trong mười sáu năm trời dưới quyền bính của Chúa Trịnh Sâm, họ ùa ra tỏ niềm hân hoan. A, thì ra lính cũng là bàn dân đấy chứ ! Dân và lính, khác gì nhau ? Trên khắp đường phố, họ cười cười nói nói, chuyện nổ như pháo, ôm vai sát cánh nhau như đi trẩy hội.

Bỏ đằng sau tiếng chiêng tiếng trống, Nhật vào sân Vương phủ. Lính đã lấy xác Lý mang đi bêu đầu ở trước Tây Long cung. Còn lại cái bó chiếu nằm chơ vơ trên thềm Chính-phủ, xác của lão Hài, kẻ lính gọi là Bố-già, mà người ta quên mất trong những giây phút hồ hởi. Ðêm đầu tháng chạp đen kìn kịt. Lính bỏ hết những vọng canh xung quanh dinh thự, đang say sưa túm tụm với nhau. Nhật lẳng lặng ôm xác lão Hài bỏ ngang lên lưng ngựa, rồi chậm rãi dắt đi trên con đường ra đê Yên Phụ. Ðến nghĩa địa gần hạt Nghi Xuân, Nhật lại ôm bó chiếu, đi một quãng tìm chỗ. Nhật rút thuổng ra đào. Ðào hì hục.

Mở bó chiếu ra, mặt lão Hài nhợt nhạt, miệng còn đọng một vệt máu đen. Dưới ánh nến, Nhật lau mặt cho lão, nhớ lại ngày lão đến gặp Nhật, lòng ôm mối lo rằng lính Tam phủ phải đánh giết lẫn nhau. Nhật nhặt nhạnh được dăm cây hương cháy dở trên những ngôi mộ xung quanh. Lấp xong đất, Nhật đốt những nén hương thừa đó, chua xót nhớ mình đã đưa được đội Trung Kính ra ven đô để tránh đi mọi đụng độ giữa lính với lính. Chàng chắp tay cúi đầu, khấn nhỏ : « Tránh được đổ máu rồi, Bố-già ạ ! ». Hình ảnh con voi cuốn lấy lão tung lên không rồi quật xuống lại lởn vởn hiện ra. Tiếng voi lại văng vẳng rống lên đâu đây, rồi tiếng chiêng trống, tiếng Hoàng Tế Lý bị át trong tiếng reo hò quát tháo ào lên như nước vỡ bờ.

Ðấy mệnh người nó thế, nho nhoi, chết đến thật tình cờ, chết vô lý vô nghĩa.

Giá mà không có ngọn kích nào đó phóng vào bụng voi, thì nào lão Hài có vong mạng. Và như thế biết đâu, biết đâu Tế Lý chẳng đã thuyết phục được đám lính Tam phủ cơ nào về đội ấy. Rồi quân Nhưỡng, quân Thạc kéo về. Chắc gì lính Tam phủ bảo vệ được ngôi Chúa cho Trịnh Tông ? Máu đổ. Lại máu đổ ! Cho Tông hay Cán, Cán hay Lý, Lý hay Bằng Vũ, Bật Trực thì có khác gì ? Những kẻ phải đổ máu ra có lẽ thực tình không hiểu vì sao. Như bị trì kéo vào cái cộng nghiệp oan trái, họ không hiểu nhưng vẫn làm. Làm điên cuồng. Làm hối hả. Cứ hệt như khi lên đồng, lú lẫn quay cuồng trong điệu kèn tiếng trống dẫn vào một cõi u mê.

Nhật bỗng ngậm ngùi, rưng rưng nước mắt, nghe loáng thoáng « ... để giết cha sao ? ». Chàng ngẩn ngơ, không hiểu rõ động cơ nào đã khiến chàng chặn đường đào tẩu của Tế Lý, buộc cha chàng phải gánh trách nhiệm trực diện đối đầu với đám kiêu binh. Phải chăng trong tiềm thức đó là cách chàng bắt cha trả giá cho sự trốn tránh cái trách nhiệm đối với cái bào thai bị bỏ rơi ngay trong bụng mẹ và người đàn bà đã trầm mình vào dòng sông Lam lạnh cóngï để rửa nhục ? Toàn Nhật cắn răng, tai lại văng vẳng tiếng thét «...Giết nó cho ta ».

Nhưng sao vẫn có điều gì gần như một niềm ân hận, lênh đênh tựa thủy triều, dâng lên, rồi ùa đến dìm dắm lòng chàng vào một nỗi cô đơn khủng khiếp.

Nhật ôm nấm mộ mới đắp ngủ thiếp cho đến lúc gà gáy sáng.

Ngày hôm sau, Tông nhận được sắc phong Chúa và vời ngay Nguyễn Khản, thầy dạy học mình đang bị giam ở nhà Quận Châu, về làm Tể Tướng. Dương Khuông, em của Dương Ngọc Hoan và là cậu của Tông, nhậm chức Quyền Phủ Sư. Ðám thủ lãnh lính Tam phủ không mấy ưng lòng, trách Khản xưa là Trấn Thủ Nghệ An đã hà khắc với nhân dân đất « tắm gội ». Họ nói ra miệng : «... Hắn mà thành Tể Tướng thì dân cả nước sẽ bị cướp bóc đến manh quần cũng sẽ chẳng còn ... ». Tông sợ, vội đình ngay việc bổ nhiệm Khản, lúng túng không biết tin vào ai, xin ý của Quốc cửu Viêm Quận công.

Viêm rỉ tai, Tông hiểu ra liền xuống chỉ phong cho Bằng Vũ làm Suy Trung Dực, Vận công thần, tước Hầu. Bọn Trần Nguyên Nhưng, Gia Thọ, Bùi Bật Trực làm Tuyên-lực công thần và theo thứ tự đều lãnh trọng chức. Ðám người nhóm họp ở Khán Sơn được ghi tên vào sổ Trung Nghĩa, cấp những đạo sắc bỏ trống chỗ đề tên người để họ bán cho kẻ khác lấy tiền. Ngoài ra, toàn bộ lính Tam phủ tham gia ở trong hay ngoài Kinh đều được thăng chức một cấp và ban tiền thưởng khắp lượt.

Về phần Toàn Nhật, Tông vời đến Vương phủ để thưởng công nhưng Nhật không nhận gì, xin được trở về trại Bùi Phong. Tông nhất định không nghe, một mực đòi giữ Nhật, lại hỏi :

- Theo ý tướng quân, liệu Phu tử có chịu giúp Tông này không ?

Nhắc lại bữa ăn buổi tối trước vụ án năm Canh Tý đã là cái cớ để Hoàng Tế Lý bắt Thức và o ép Phu tử trong việc phế Tông lập Cán, Tông làm ra vẻ ngậm ngùi, tiếp :

- Nếu Trọng Thức chịu về Kinh để cùng với Tông này hợp sức cùng nhau xây lại đời Nghiêu đời Thuấn thì
hay biết mấy. Tướng quân nghĩ thế nào ?

Nhật cười thầm, nhưng chỉ cúi đầu cảm tạ, và cho biết là chẳng ai biết Thức đã trôi giạt về đâu từ ngày trốn khỏi Kinh dăm tháng trước. Tông đưa tay lên trời, điệu bộ như người đóng kịch, thở dài :

- Ô hô, nhân tài như sao buổi sớm ! Cầu trời cho Tông này được những bậc chính nhân phù trợ !

Toàn Nhật khải Chúa về việc Ðặng thị Mai bị Huệ bắt và chỉ xin được phép mang nàng ra khỏi chốn tù ngục. Tông biết rõ chuyện Huệ ép Mai lấy Thái tử Lê duy Cẩn cũng như ý đồ Mai định trốn theoThức, nói dăm câu phủ dụ nhạt nhẽo và ban cho ít tiền thưởng để lấy lòng. Ra khỏi Vương phủ, Toàn Nhật vào thẳng dinh Trịnh Cán tìm Mai. Gia nhân trong dinh lấy khóa mở cái xiềng cửa một căn phòng nằm tuốt phía sau. Mai nằm trên một chiếc trõng tre, mình đắp chiếc chăn đơn. Nàng không hề hay biết gì về những sự cố xảy ra bên ngoài. Thấy Nhật vào, Mai ứa nước mắt.

Những ngày tù ngục vừa qua là đoạn đời cực nhọc nhất của Mai. Sợ bị đánh thuốc để phá cái thai trong bụng, Mai không dám ăn gì, chỉ uống nước cầm chừng gần ba tháng. Sau, có một con mèo đen không biết thế nào mà lọt được vào phòng. Thức ăn bưng vào, Mai để mèo thử trước, một ngày sau không thấy gì bất thường mới dám ăn. Ăn cầm chừng. Lúc nào cũng phấp phỏng. Nhưng vẫn phải ăn để nuôi cái bào thai mỗi lúc một lớn, cựa quậy, chân đạp, tay quào. Mai vuốt ve cái bụng mình, miệng nựng : « Con ơi, cố đi, rồi có lúc thái lai... », nhắm mắt mơ tới ngày phá cũi xổ lồng. Trong những giấc mơ ấy, người đứng phía bên kia chờ Mai là Thức. Chàng mỉm cười, hai tay giơ lên, nói lớn : «Trời có mắt, trời có mắt ...».

Người Mai gầy tọp đến một nửa, mắt sâu hoắm, ngực lép kẹp. Sợ Mai chết, thị nữ đến báo Ðặng thị Huệ. Huệ vào, tay để lên trán Mai, nói giọng như khóc : «Chị đâu có muốn em thế này, sao không chịu làm hoàng hậu mà lại làm con ma không chồng ? Ðã bắt được thằng Thức rồi, hiện bỏ ngục. Nếu em nhất định không chịu lấy Thái tử Cẩn, chắc Tế Lý giết nó thôi. Còn cái thai này, cứ ưng lòng đi, đẻ ra chị sẽ nhận làm con nuôi. Như vậy, thế là cứu cả con lẫn thằng Thức, cho em thêm ít lâu để em suy nghĩ ...».

Mai nghe Thức bị bắt, người điếng đi, lưỡi cứng ra, sợ quá cứ vâng vâng dạ dạ. Khi Huệ đi rồi, Mai ngẫm nghĩ : bất cứ giá nào cũng phải cứu Thức. Vả lại, cái thai mới năm tháng, vậy là còn bốn tháng có thể trì hoãn được. Nàng xin gặp Huệ, gập đầu thưa : «... Từ nay em nghe lời chị. Chỉ xin rằng được gặp Thức một lần, trao đứa con lại cho bố nó, rồi chị đặt đâu em ngồi đó ...». Từ dạo đó, mặc dầu vẫn bị quản thúc, nàng được phép ra khỏi phòng, lẩn quẩn ở Hậu cung nhưng lúc nào cũng có hai thị nữ kèm cặp.

Một trong hai thị nữ tên là Soan, vốn là vợ một cai cơ trong đội Thị-kỵ. Soan thấy cái dây chuyền có đính một viên bích ngọc của Mai cứ trầm trồ, mê mẩn ngắm. Mai thấy thế, nhờ Soan hỏi thăm tin Trọng Thức, nếu có gì đích xác thì bồi tặng sợi dây chuyền. Nửa tháng sau, Soan bảo : «... có bắt được đâu !». Trong lúc ấy, viện Nội Mật tỏa người ra khắp nơi truy nã Thức ngặt nghẽo. Mai mừng quá, vào phòng, nằm khóc rồi lại vuốt bụng mình, nói thầm : «... con ơi, bố con vẫn tự do ». Ðêm hôm ấy Mai mơ thấy một con chim phượng trắng toát tít cao trên mây, cánh chơi vơi bay lên đáp xuống, rồi sà vào nằm ủ lấy thân thể mình.
ý tìm đường thoát thân nhen nhúm như lửa bén vào cây khô trong lòng Mai. Nàng hứa với Soan là tặng hết tài sản nếu Soan giúp nàng. Tháng sau, Soan xin về quê giỗ bố, rồi lén lút quay lại, dẫn Mai ra phía đông vườn Uyển, định trốn ra Cầu Giấy, sau đó lẻn sang bến Thúy Ái tìm thuyền xuôi về Nam Ðịnh. Không may, lính tráng trong đội Hậu Dũng bắt lại cả hai, mang nộp Tế Lý.

Huệ giận quá, bắt vợ chồng Soan đem chém ngay, không hỏi tội trạng gì thêm. Nàng gọi Mai ra, nhìn chằm chặp :

- Mày đối với tao tệ đến thế à ?

Mai chưa dám nói gì thì Huệ bất ngờ quào vào mặt. Móng tay dài như vuốt chim rạch vào má Mai hai vết chạy từ cuối thái dương đến cằm, máu ứa ra nhỏ giọt. Huệ rít lên :

- Ðồ khốn nạn. Mặt mày sẹo thế này, cho mày nhớ đời. Nhan sắc à ? Ðể làm gì ? Cái nhan sắc ấy mà không ra tiền ra quyền thì có hơn gì xấu xí !

Từ đó Mai lại bị bỏ vào phòng, cửa lúc nào cũng xiềng lại. Mai nghiêng người cho Nhật nhìn thấy vết sẹo trên má mình, giọng run rẩy :

- Nhật có biết anh Thức ở đâu không ?

Nhật lắc đầu, kể cho Mai chuyện cấm binh đã lật Lý và Huệ, nhìn vết sẹo rồi hỏi, giọng sắc đanh :

- Chị có định quào lại Huệ thì Nhật xin đưa chị đi ngay !

Mai cười buồn, lắc đầu :

- Thôi, chẳng để làm gì ! Thôi đi, Nhật ạ !

Nhật xếp đặt đưa Mai về quê nội ở Phù Ðổng, hẹn sẽ tìm Thức và báo tin. Mai lúc đó gày gò, bụng chửa vượt mặt, tay xanh xao nắm lấy Nhật, nước mắt giàn giụa. Linh tính thấy một điều gì, nàng bật miệng :

- ... chắc còn lâu, lâu lắm mới lại thấy nhau.

Thế quyền nào với bàn dân cũng đều có một thời gian trăng mật. Hệt như vợ chồng mới cưới, hai đằng khám phá lẫn nhau, thử thách giằng co nhau. Ðến cái mực biết nhau rồi thì thôi, tình nghĩa lại nhạt phèo, quay lưng vào với nhau mà ngủ. Cochân lại giả ngủ say, ngáy cho đều là bàn dân. Còn thế quyền, lúc nào cũng chập chờn, chỉ lo không biết lúc nào ngã xuống chân giường. Vì vậy, thế quyền nằm xoạc cẳng ra, tay níu lấy thành giường, và cất dao kéo dưới gối.

Những giấc ngủ như thế bắt đầu ngay khi bọn chỉ huy lính Tam phủ sai đi tìm đám thủ hạ của Lý và Huệ đã lừa bắt những kẻ theo Trịnh Tông trong vụ án Canh Tý mang chém hoặc bỏ ngục. Nếu thời trước người ta còn mang ra định án rồi khu xử theo tội trạng thì ngày nay, lính Tam phủ mau mắn hơn, khỏi bỏ cái công mang ra tra xét cho mệt. Ðối với bọn ác ôn, họ mang ra đường kể tội, rồi để cả giỏ đá sẵn đấy, bàn dân ai thích cứ lấy mà ném cho đến chết. Ðám tội nhẹ hơn, họ để bàn dân đánh đập. Nếu có chút tiền đưa ra, họ thôi. Nếu không có, thì lại đánh đập nữa. Ðánh cho đến khi lòi tiền ra. Không tiền, kẻ bị đánh trở thành ác ôn. Và lại để bàn dân vui vẻ chơi trò ném đá, họ rêu rao : «... chúng là kẻ thù của nhân dân, phải trừng trị xứng đáng ». Triều đình không dám ho he. Nhà Chúa cũng vì nể, nếu có trách thì chỉ dám nói bóng nói gió. Lính Tam phủ đi ngoài chợ, quan lớn quan nhỏ, công hầu khanh tướng gặp họ thường phải né tránh để khỏi bị họ làm nhục trước mắt bàn dân.

Dân Kinh Kỳ gọi lính Tam phủ là Kiêu binh.

Bọn Bằng Vũ, Bật Trực, Nguyên Nhưng và Gia Thọ là những công thần trong thời đại mới. Họ hồ hởi lao mình vào việc triều chính, khiêm nhường tự xưng là đầy tớ nhân dân, đưa ra phương án dẹp Tây Sơn và Chúa Nguyễn ở Ðàng Trong hầu thu đấùt nước về một mối. Bàn dân nhận được lệnh bắt lính lo lắm, nhưng chẳng biết làm gì hơn là tiếu lâm với nhau, nói lái hai chữ chinh chiến ra thành chuyên chế.

Quên khuấy mất việc hứa miễn sưu miễn thuế ba năm cho bàn dân, những kẻ nay cầm quyền bính trong bụng chỉ lo đối phó với bọn sĩ phu cả trong triều lẫn ngoài tam cung ngũ phủ. Ðám quan mới nghĩ cách phân biệt họ với đám quan cũ bằng cách cắt bỏ hai cáng chuồn và đính trên mũ của mình hình một ngôi sao mầu đen. Bàn dân lại có dịp đùa đó là những vì sao sáng giữa ban ngày.

Theo kế của Bùi Bật Trực, lính gốc Thanh-Nghệ đóng ở mọi trấn đều được đặt vào những vị trí quan yếu, giữ thế liên hoàn với lực lượng trấn thủ Thăng Long. Trực hội họp với Bằng Vũ, Nguyên Nhưng và Gia Thọ, hàng ngày theo dõi việc triều đình, thấy gì không vừa lòng là họ hoạnh hoẹ và can thiệp ngay. Bằng Vũ tiếm chức chỉ huy đạo quân Thị Nội, áp đảo cả Chúa lẫn đại thần và tự mình tổ chức lại Nội Mật viện mà không thèm hỏi ý triều đình. Về phần Gia Thọ, hắn cậy thế kiêu binh xen vào việc xét xử cả việc hình lẫn việc hộ, cứ tư riêng với ai là kẻ đó thắng kiện, thay trắng đổi đen tùy ý.

Bật Trực đã thảo sẵn ra hai phương án, gọi là Nông chế và Chiến sách . Ðại để, những phương án này chỉ sao chép lại cổ thư của Thương Ưởng và Hàn Phi, cho rằng cái gốc của xã hội là sức mạnh. Sức mạnh đó chỉ có thể có nếu nông nghiệp phát triển để cho dân giàu; và dân giàu thì mới tạo khả năng xây dựng một lực lượng võ bị hùng hậu. Trực thích nói chữ, đắc chí lặp đi lặp lại lời Hàn Phi : « Lực đa tắc nhân triều, lực quả tắc triều ư nhân; cố minh quân vụ lực », có nghĩa là sức mình mạnh thì người triều phục mình, sức mình yếu thì mình triều phục người, nên bực minh quân cần lo về sức mạnh.

Ðể cai trị, Trực bắt chước Thương Ưởng, đề cao hình pháp, đặt ra năm nhà thành một ngũ, mười thì thành một thập, phải coi chừng lẫn nhau, thấy phạm luật mà không tố cáo thị bị tội chém. Nhưng thế nào là phạm luật ? Ngoài trộm cắp giết người cướp của, Trực cho rằng bất cứ gì, kể cả điều tiếng, biện bác đi ngược lại Nông chế, có tác hại đến quyền lợi và sự nghiệp của con nhà nông là phạm luật. Với một chủ trương chung chung như vậy, Gia Thọ độc quyền diễn dịch khiến cho phép nước trở thành hoàn toàn tùy tiện. Những việc cụ thể ai muốn hiểu thế nào cũng biện minh được. Tệ hơn, muốn bắt tội ai cũng có cách giải thích cho hợp tình hợp lý được. Vì vậy, hình pháp trở thành quốc nạn, và tha hồ bọn nắm quyền nắm thế thao túng để trục lợi, chủ yếu là chiếm nhà chiếm đất làm sở hữu riêng tư.

Nhưng nguy hiểm hơn hết vẫn là bệnh lưỡi rụt, một căn bệnh hay lây đến nay vẫn chưa có thuốc chữa. Trong dân gian, không khí nghi kỵ lẫn nhau trở thành một thứ văn hóa mới. Không ai dám nói gì chân thật với ai, thậm chí kể cả với anh em, bố mẹ, con cái. Chỉ ít lâu sau, căn bệnh đó lại biến chứng thành ra tật léo lưỡi. Bàn dân mở mồm thường là nói nước đôi nước ba, không ai hiểu được ai. Sau cái tật này, dân Kinh Kỳ mắc thói vừa thì thào vừa nhìn quanh và nhất là nhìn ra sau lưng. Thói này được Hải Thượng Lãn Ông gọi là hội chứng lạnh gáy, chữa khó nhưng có thể thuyên giảm bằng cách uống rượu đế. Xã hội thành một sân khấu khổng lồ, toàn dân rủ nhau diễn kịch, lặp lại những khẩu hiệu kiểu «Sĩ, Phú, Ðịa, Hào. Ðào tận gốc, trốc tận rễ » hệt những con vẹt tự động. Hai quốc sách là Nông chế và Chiến sách trở thành hai pho kinh thiêng liêng đến độ có những người mang thờ trên bàn thờ tổ như một cách thủ thân và tiến thân dưới chế độ Kiêu Binh.

Bằng Vũ noi gương Lý Tư thời Tần, ra lệnh gom hết sách của Bách Gia Chư Tử, chỉ để dân gian giữ sách về nghề trồng trọt, chăn nuôi, sách thuốc và sách tử vi, bói toán. Thời kiêu binh, lên đồng trở thành phổ biến. Chỉ có người ngồi đồng dựa vào thần thánh là có dịp muốn nói gì cũng được. Tuy thế, phần lớn vẫn sợ, và có nói thì họ chỉ ca thán về những chuyện oan ức và đói khổ. Thần thánh cũng ngại không dám bình phẩm hai quốc sách. Dĩ nhiên, khi đồng xuất để trở lại làm người phàm, không ai còn nhớ gì nữa.

Dân Kinh Kỳ đã hết hy vọng. Như mọi sinh vật, họ đã bắt đầu thích ứng với cái xã hội mới và tùng phục một nền văn hóa mới. Ðúng lúc đó thì xẩy ra một sự cố nhỏ nhưng cũng đủ khiến cho con người lại mất đi cái quán tính cam chịu số phận. Ở chợ Hôm, đứa con trai đầu lòng một bà bán hoa đã lên sáu mà chưa biết nói. Nó khá bụ bẫm, trắng trẻo, thường cứ giương mắt đen lay láy lên chào mời khách, miệng cười, tay chỉ vào những bông cẩm chướng kẹp trong những tầu lá chuối xanh biếc mầu phí thủy. Sáng hôm rằm, một tên kiêu binh ghé vào chợ, túm lấy vài bó hoa, bỏ đi không thèm nói một lời. Nó há miệng ú ớ, rồi bật thành tiếng :

- Ðồ ăn cướp !

Tên kiêu binh quay phắt lại, hùng hổ :

- A, ranh con. Thế thì tao lấy cả gánh chứ chẳng phải vài bó.

Thằng bé bỗng đảo người đứng dậy, vươn mình cao lên, rồi cất tiếng hát, giọng lanh lảnh :

- Ới ai ơi, nông chế là nên chống

Chiến sách là ách cổ dân.

Người hàng chợ xôn xao, có kẻ kêu lên là Ðức Thánh đã về. Tên kiêu binh ném mấy bó hoa xuống đất, ba chân bốn cẳng chạy về báo viện Nội Mật. Hàng dân ở đâu bu tới, bày ra hương án, trong khi thằng bé đứng lên trên một chiếc sập, mồm thao thao bất tuyệt những bài cổ thi.
Khi Bằng Vũ đích thân tới nơi, thằng bé đang đọc :

- Vị cải thử độ ( Vẫn chưa đổi hướng ư )

Xa ký phúc nhi mã diên hề(Xe kia đã đổ, ngựa kia đã ngã)

Kiển độc hoài thử dị lộ (Sao cứ bám con đường quaí dị ấy)

Lặc kỳ ký nhi cánh giá hề (Hãy thắng ngựa ký và đổi yên)

Tạo phủ vị ngã tháo chi (Rồi nhờ Tạo phủ cầm cương )

Mặt xanh nhợt, Bằng Vũ mang máng nhớ bài thơ, quát :

- Mi là thánh hay quỉ ? Bài Tư mỹ nhân của Khuất Nguyên làm sao đổi được đời này ! Thánh hay quỉ cũng phải bước xuống ngay !

Thằng bé lại vươn cho cao thêm một trượng, cười ha hả :

- Nông chế là nên chống

Chiến sách là ách cổ dân

Gầm lên như phát điên, Vũ hét :

- Giết nó, giết ngay cho ta...

Ðám kiêu binh nhìn thủ lãnh, ngần ngừ, vẻ sợ sệt không che dấu ai được. Móc tay ném xuống đất thỏi vàng ròng, Vũ cười nhạt :

- Thưởng cho.

Một tên đen đủi, lùn tịt, mồm chề ra những chiếc răng vẩu bám vôi trầu đỏ loét, xông vội ra lao chiếc kích vào ngực thằng bé.

Hàng dân ôm mặt rú lên.

Lạ thay, chiếc kích cắm phập vào chiếc cột gỗ chống chợ, và chỉ có một con vàng anh bay vù lên. Nó đảo một vòng quanh chợ rồi chắp cánh về một chốn tít mù, tiếng kêu lảnh lót vang đến tận tầng mây cao nhất trên đồng bằng sông Nhị.

Cho đến tận bây giờ, mầu vàng của cánh chim xưa thỉnh thoảng lại óng ánh sáng lên ở phía đông thành Thăng Long. Những lúc đó, dẫu chẳng muốn, không mấy ai lại không nghe tiếng chim kêu dục giã.

Chương 6
Bụi Kinh Kỳ

Dưới thời Diễn Ðô Vương Trịnh Tông, Thăng Long trở thành một hòn cù lao trong dòng quyền lực. Ở hầu hết mọi trấn, từ Kinh Bắc trở lên Cao Bằng, Tuyên Quang hay xuống đến Sơn Nam, Hải Dương, các quan Hiệp Trấn đều án binh bất động. Chỉ riêng Thanh - Nghệ, bọn kiêu binh dẫu có ảnh hưởng nhiều nhưng vẫn gặp sự chống đối ngầm của viên Tham Hiệp họ Lê, tên Quốc Trình. Vì thế, “ Chiến sách ” của Bùi Bật Trực nhằm tiến vào Ðàng Trong bị chựng lại ở mọi nơi. Lệ cứ mỗi ba đinh bắt một lính khiến một số trấn như Hải Dương và Sơn Tây gây dựng được binh lực khá mạnh, nhưng hai đại tướng Ðinh Tích Nhưỡng và Hoàng Phùng Cơ cứ mũ ni che tai, thậm chí thoái thái không về Kinh ra mắt Trịnh Tông. Áp lực của bọn Bằng Vũ, Bật Trực trên triều đình kết cục cô lập hóa chính quyền trung ương, vô hình chung tạo ra sức đề kháng ở mọi nơi địa phương, và dần dà đưa Ðàng Ngoài vào thế sứ quân. Trực lo lắng, bắt giết Lê Quốc Trình, rồi ép Tông ra sắc lệnh cứ năm đinh mới bắt một lính như lệ cũ. Lý do đưa ra, Trực tâu, là có thực mới vực được đạo. Vì thế, triều đình phải tập trung sức dân để tiến hành “ Nông chế ” trước.

“ Nông chế ” là người định. Lũ lụt do trời. Ngay quí đầu năm Quí Mão, gió bão liên miên, nước sông Nhị lên cao tràn vào, vùng ven đô ngập đến bụng. Mặt khác, đất đai đều hóa ra công điền nên dân cày biến thành những người làm công, cứ theo công mà trả bằng lúa. Thói thường, cha chung không ai khóc. Vả lại, của chung là của tất cả mọi người, nên ai nấy đều tìm cách tranh phần mình. Dĩ nhiên, phần lớn nhất đều vào tay những kẻ có quyền phân, quyền quản. Dân làm vè ta thán: Gì cũng quản, gì cũng phân. Ðến phân cũng quản thì dân còn gì. Cũng vì phân chia bất công khiến hàng dân làm vờ vịt cho có, hoặc lãng công phản đối. Cả một làng ở miệt Gia Lâm nhất định không một ai chịu ra đồng đi cấy. Họ bị bỏ đói, kết cuộc chết quá nửa làng. Tiếng về Kinh làm hàng dân xôn xao, chẳng phải vì sắp Tết, mà là vì viễn tượng thiếu đói ngay ở Kinh Kỳ đã chập chờ đe dọa.

Lời đồn rằng Ðinh tích Nhưỡng sẽ kéo quân từ Hải Dương về “ cứu giá ” khiến giá gạo tăng lên vùn vụt. Bằng Vũ ra lệnh chém bất cứ ai dị nghị lung lạc lòng người, rồi mang yết chiếu an dân ở năm cửa ô. Vũ sai người mời Toàn Nhật vào dinh.

Thời gian từ ngày Kiêu binh chấp chính, Nhật vẫn trú ở dinh Khương tả hầu. Gần như mất hết sinh thú, suốt ngày chàng ngồi dựa vào gốc cây sung cạnh bờ ao, tay cầm be rượu, uống một mình, say lại lăn ra ngủ. Bộ râu quai nón không cắt nay xồm xoàm đâm xỉa ra như lông nhím, che phần nào nét xanh xao, nhưng chẳng giấu được cặp mắt chàng nay lõm sâu vào, quầng thâm lại, và nhìn thì cứ đâu đâu, lạc lõng, vô hồn. Bằng Vũ bước xuống đón Nhật, ngạc nhiên :

- Võ huynh, sao mà tiều tụy thế ...

- ...

Kéo Nhật ngồi xuống bên mình, Vũ hỏi han nhưng Nhật chỉ trả lời hờ hững. Vũ giả lả :

- Triệt hạ được Hoàng Tế Lý, công đầu là huynh, vậy mà Chúa không phong, không thưởng gì. Ðể ta vào
Chính phủ lấy bằng được cái Tuyên lực công thân, tước Uy vũ hầu, cho Võ huynh nhé ?

Toàn Nhật lắc đầu. Vũ lại gặng. Nhật nhìn lên trần, cười nhạt rồi buông thõng :

- Giết cha mà được phong hầu thì còn trời đất gì nữa !

Lắc đầu quầy quậy, Vũ lại nói như biện minh hộ Nhật. Nhìn lơ đãng ra vườn, Nhật bất ngờ hỏi :

- Nhà quan Vận công thần có rượu ngon không ?

Vũ vẫy tay gọi người nhà. Uống một lúc sạch be rượu, Nhật mới thong thả :

- Bằng huynh gọi đệ đến có việc gì ?

- Kinh Kỳ có thể lâm nguy. Có tin chắc chắn là Nhưỡng ở Hải Dương gom quân tập trận. Anh em nhờ Võ huynh chống giặc cho.

Buồn bã, Nhật nói :

- Cấm binh nay trong tay huynh. Ở dinh Khương tả hầu, đệ còn hai chục tay võ, tình nguyện ở lại với đệ để tập võ. Ngay chuyện tập ấy, đệ cũng chẳng còn quan tâm. Vậy làm sao chống được ai ?

Vũ cắt ngang :

- Ðám Bật Trực, Gia Thọ không tin là Nguyên Nhưng có đủ khả năng. Họ muốn giao cho Võ huynh bốn đội
Tiền - Hậu - Hùng - Dũng. Kế hoạch là đem đánh thẳng vào dinh ổ Nhưỡng trước khi hắn gom được quân
về.

Tay vê râu, miệng nhếch lên, Nhật đủng đỉnh :

- Nhưỡng nắm thủy binh, dinh trại dựa vào sát mé biển. Cấm binh có biết đi thuyền đâu mà đánh, mà đuổi. Vây bất ngờ có thể thắng được, nhưng lại không bắt được, nó quay về vây lại, lấy mười đánh một thì chống đỡ thế nào?

Vũ lặng người đi, tay gõ nhẹ xuống mặt bàn. Một lát sau, Vũ hỏi :

- Thôi. Liệu cấm binh ở thế thủ có giữ được Kinh không?

- Vấn đề ở chỗ giữ được bao lâu. Bị vây, lính đói, dân đói thì sao ?

- Nếu giữ được một tháng, lính Thanh - Nghệ sẽ về cứu. Võ huynh giúp phòng thủ Kinh Kỳ nhé ...

Toàn Nhật ngửa mặt cười, giọng bi thiết :

- Sức của Nguyên Nhưng có thể làm việc ấy được rồi. Về phần đệ, đã giết rồi chưa kịp để tang cha mà lại phải nhận quan tước cầm quân, thì mặt mũi nào nhìn ai nữa... Nhật này chỉ xin huynh cho đệ rời Kinh về
Bùi Phong phụng dưỡng thầy mà thôi.

Vũ đáp, miệng nói như có gang, nhưng mắt lại nhìn xuống đất :

- Ừ, để xem đã nhé.

Hiểu rằng đó là lời từ chối, Nhật đứng dậy kiếu :

- Ðệ phải về, chiều nay nhà có khách.

Từ trước Tết năm Ất Sửu, Côn quận công Trịnh Bồng xuống Hải Dương, sau đó giạt tới Kiến An, xuống tóc vào xin thụ giới với một vị cao tăng không ai rõ tên tuổi. Năm sau, Chúa Trịnh Tông phái sứ giả đi tìm, khẩn khoản mời Bồng về giúp mình, viết : “ Nếu không thì chẳng biết cơ nghiệp họ Trịnh đi về đâu ”.

Bồng vốn là người nết na đạo hạnh. Cha Bồng là anh Trịnh Sâm; và dẫu cha bị chú ruột mình hại, Bồng cũng chẳng oán gì Sâm. Khi Cán ốm đau tưởng là không qua, chính Sâm có ý lập Bồng lên nhiếp chính, nhất định không đoái hoài gì đến Tông. Nhưng Bồâng vốn ưa thanh tịnh, lẩn đi, có dịp lại đến chơi với Phu tử, luận bàn về vấn đề tổng hợp Nho-Phật.

Lần lữa, Bồng nhờ sứ giả về nói với Tông rằng đã dâng mình cửa Thiền, không muốn dính gì đến bụi nhân gian. Tông lại phái sứ giả lên chùa, tha thiết cầu khẩn. Về đến Kinh, Bồng xin gặp Tông và nói ngay :

- Khải Chúa, tôi xin phép thầy tôi được đi hai năm đến hầu Chúa, sau đó phải về chùa.

Tông mừng, nắm hai bàn tay Bồng bảo :

- ... có huynh có đệ thì mới giữ được nghiệp nhà.

Từ đó, Bồng dẫu tham sự vào việc triều đình, nhưng cứ chân trong chân ngoài, về đến nhà là tụng kinh gõ mõ. Chiều hôm Nhật gặp Bằng Vũ, Bồng lững thững đến dinh Khương Tả hầu, nơi ngày trước Phu tử cư ngụ, để hỏi thăm tin tức. Cổng mở, Toàn Nhật ra mời vào.

Xưa kia, hai người ít trao đổi khi có dịp gặp nhau. Thoáng nhìn Nhật, Bồng bật miệng :

- Cái sát khí trong đôi mắt của tướng quân nặng quá ! Phải giải nó đi.

Nhật lửng lơ đáp :

- Tôi giải nó mỗi ngày bằng cách chém đúng trăm lần ba đường gươm. Thượng công có muốn xem không ?
Bồng lắc đầu.

Trời bỗng bần bật gió. Gió xoáy vòng thành những cột bụi bốc lên thẳng trên trời, chạy sang trái rồi sang phải như một con trâu nổi cơn điên, quần quật đánh thốc vào những mái rạ, mái ngói. Tiếng đổ vỡ nghe chát chúa từ bốn về. Rồi tiếng người réo nhau. Tiếng chó sủa. Tiếng gà kêu quang quác. Bụi mù bay vào mắt vào mũi đến không thở được.

Lấy vạt áo che mắt, Bồng ra đứng giữa sân, im lìm như một pho tượng chết. Khi gió đã ngưng, Nhật đến bên cạnh. Bồng nhỏ nhẹ :

- Bụi đấy, bụi Kinh Kỳ. Không khéo thì dây lấm mà khéo thì cũng dây lấm, tướng quân ạ ! Chỉ xa đi thì mới
tẩy trần được thôi.

Hai người bước sóng đôi đến ven hồ. Trăng nhô lên cao khỏi đầu những tàn lá, lạnh lẽo, mơ hồ. Nghe tiếng
cá quẫy, Bồng đọc bài kệ :

Tâm có trước đất trời

Thân có sau đất trời

Ðất trời bọc thân tâm

Xoay vần bao giờ mất

Ðọc xong, Bồng tạ từ ra về, chỉ nói :

-Còn duyên là còn gặp.

Mấy hôm rồi, trận mưa dầm kéo dai dẳng như đánh đu với trời đất. Nỗi sợ lúa úng nước ở đầu cửa miệng, hàng dân nhìn lên những đám mây lì lợm rồi ngó nhau chép miệng. Nước ven bờ đê sông Nhị réo sôi sùng sục dọa nạt. Ðêm đêm tiếng kẻng hộ đê báo động đánh thức cư dân cứ từng chặp khua lên. Miệt phía đông, nước sông Nam Ðịnh đã tràn ra ngập trắng những cánh đồng chiêm. Nước tứ bề mênh mông nhìn tưởng như là biển. Dân chạy lụt bắt đầu thấp thoáng ở những cửa ô. Mùa màng năm nay chắc là không cứu nổi nếu cứ mưa gió mãi thế này. Bàn dân lại thì thào “ ... kiêu binh làm ngược đạo trời. Cho nên... ”.

Tiếng mưa tí tách trên mái ngói dinh Khương tả hầu đều đặn như ru ngủ. Du uể oải nhìn ra vườn, hỏi :

- Anh phỏng chừng lúc nào thì đi được ?

Nhật lắc đầu, nâng ly rượu uống cạn, đáp :

- Chưa biết ! Nhật cười, tiếp - đi chẳng khó, nhưng đi đâu ? Ði đến đâu thì cũng thế thôi. Ta cứ tạm ở đây
để uống cho say cái đã ...

Ái ngại, Du định lên tiếng nhưng lại tần ngần rồi thôi. Ðúng lúc đó, cửa phòng mở, lão bộc đủng đỉnh vào báo có khách.

Ðó là một người đàn bà từ quê ra, đi cùng là ba đứa bé độ chừng mươi, mười lăm tuổi. Người đàn bà chạc trung niên, răng đen, môi đỏ màu trầu, nhút nhát :

- Bẩm các quan, nhà cháu ở Hưng Yên vào. Hỏi thăm mãi, các ông ấy bảo là chỉ có quan đây mới biết chỗ
chôn Bố-già các cháu !

Nhật ngạc nhiên, ngần ngừ nhìn mấy đứa trẻ :

- Nếu là lão Hài thì xưa nay có ai nghe ông ta vợ con gì đâu!

- Dạ, chính lão - người đàn bà quay sang tíu tít nói với đám con - Ðấy, thế là tìm được rồi !

Bà lại cúi đầu, tiếp :

- Bẩm quan, bố-già các cháu không đẻ, nhưng nuôi các cháu.

Bà tên là Thơm, vốn người làng lão Hài. Năm mười sáu, Hài đã ngắm nghé Thơm, chưa nói ra nhưng tình ý ai cũng biết. Hài lúc đó đã đâu hai lăm hai bảy tuổi, lại phải nuôi mẹ già, chẳng dám tính đến đường vợ con. Dân làng chế là trai-già, nhưng ai cũng thương Hài, chỉ mong cho vợ con yên ổn. Ðùng một cái, Chúa bắt cứ ba đinh một lính đi đánh giặc Nguyễn Hữu Cầu. Hài phải xung quân đi bằn bặt ba năm. Khi về, Thơm đã lấy chồng và có chửa đứa lớn. Thấy Hài, Thơm cắn răng, ra dựa gốc cây sung ở bờ ao khóc một mình. Hài biết, không nói gì, cũng khóc. Mẹ Hài mất. Thế rồi Hài biệt tăm, khi đi trấn thủ Nghệ An, lúc lại vào đến Châu Hoan, Châu Ái. Sau này chồng Thơm, người làng bên, cũng phải đi lính. Trong lần đánh Phú Xuân, chồng Thơm chết trận. Hài về làng gặp Thơm, buồn rầu bảo “Cái phận nó vậy, biết làm sao được !”. Bốn năm liền, Hài cầm nửa phần lương của mình cho Thơm, hể hả : “ ... trên Kinh tôi ăn cơm lính, có tiêu pha gì đâu, để tiền đầu giường lại sợ trộm cắp ”. Mỗi lần về, Hài thường đến thăm hỏi lũ trẻ. Chúng cũng bắt chước lính, gọi Hài là Bố-già. Và cứ hễ Bố-già về là lại có quà, khi thì một lạng kẹo bột, khi lại một cân đường phèn. Ðến Tết, thế nào cũng thêm một bánh pháo.

Một tối, Thơm ngồi giặt áo ở bờ ao, Hài đứng tựa gốc cây sung, lẳng lặng nhìn ánh trăng vừa độ mười sáu. Vạn vật nhuộm màu trăng xanh lớt như bất động. Chỉ có tiếng nước khuấy. Tiếng Thơm thở, ngực nhô lên hụp xuống cái chuyển động kỳ diệu của tạo hóa. Chợt Thơm lên tiếng “... Này, hay là...”, rồi lí nhí “ hay là, hay là...”. Hài ngẩn người ra chưa đáp thì Thơm đâm bổ vào lòng. Họ ôm nhau rất lâu. Thơm khóc rưng rức. Một lúc sau, Hài gỡ tay Thơm, nói từng tiếng, dịu dàng nhưng cương quyết : “ Không đi lính thì lấy gì mà ăn. Cái đời lính nó bất trắc lắm. Thôi cứ để như vậy mà lại hay, Thơm ạ !”. Nói xong, Hài về, hút thuốc lào sằng sặc rồi uống đến say khướt. Hôm sau, Bố-già sang chào, bảo với đám trẻ “... Tết nhé, Tết bố lại về ”.
Ðưa gia đình bà Thơm đi lên nghĩa địa nơi Nhật đã chôn lão Hài, Du vừa đi vừa ngẫm nghĩ về bao nhiêu oan trái mất mát trong những cuộc đời xung quanh. Bước vòng vèo qua những gò đống ngổn ngang hoang phế, lòng Du man mác một nỗi cảm thương vô hạn. Dưới kia là những bộ xương đã một đời chạy vạy, lăn lóc trong cuộc trần ai này. Trên đây, những linh hồn đã rời thể xác chẳng hiểu xô giạt về cõi nào vô định. Nhìn những nấm mộ hiu quạnh chẳng đèn nhang hương khói, Du lẩm nhẩm :

Còn chi ai giỏi ai hèn

Còn chi mà nói ai hiền ai ngu .

Ðâu đây tiếng kèn đám ma văng vẳng. Cõi phù thế tạm bợ này lại đầy nước mắt của người sống. Họ khóc, một phần là khóc cho kẻ nằm xuống, một phần khóc vì thương thân. Sự đau đớn mất mát làm họ tỉnh lại, nhưng chỉ giây lát. Khi chôn cất xong, họ về. Và thế là dứt, cơn u mê lại bắt đầu. Họ lại xông vào cuộc sống với lòng tham lam, tiï hiềm và nhất là sự hão huyền. Kẻ mạnh chèn ép người yếu. Còn kẻ yếu, họ đi tìm người yếu hơn mình. Họ ức hiếp, hành hạ, đâm chém lẫn nhau, lòng vòng xoay như đèn kéo quân kẻ nọ đuổi người kia. Không thấy gì khác hơn là cái bóng trước mắt mình, họ cứ lao vào mà chụp bắt. Bắt xong bóng này, họ lại đi tìm cái bóng khác, vẫn ở đằng trước, và cứ như thế ...

Du quay lại tần ngần nhìn. Gia đình bà Thơm quây nhau lại, tay che gió, tay che mưa, nhóm lửa đốt hương, rồi bày lễ cúng : Ba nắm cơm với một quả trứng luộc. Họ thắt lên đầu những vòng khăn tang trắng, nước mắt giàn giụa, miệng lẩm nhẩm khấn vái. Ðứa bé gái ngồi xổm cạnh nấm đất sụt sùi, chỉ biết gọi “ Bố-già ơi! Sao lại bỏ con đi ! ”. Nước mắt ứa ra, Du hồi tưởng đến người lính già chết cũng bởi những cái bóng từ một cõi đi về ám ảnh nhân sinh. Ô, cái bóng huyển hoặc của phú quí, tiền tài. Cái bóng của quyền thế, của danh vọng. Thế nhân nhoài người với tay ra bắt. Lúc có, không thấy đủ. Không đủ, lại tiếp tục chụp bắt... Cho đến phút cuối, sức đã kiệt, họ có thấy chăng là đằng sau những cái bóng còn biết bao nhiêu điều có thật chót bị lãng quên ?

Ðó chính là những niềm hạnh phúc của một cuộc sống bình thường. Hạnh phúc khi nhìn trời xanh. Khi đùa vui với con, với cháu. Khi chợt gặp một ánh trăng. Khi cắn vào trái vả chín cây. Khi ngửi hương cốm đầu mùa. Những niềm hạnh phúc ấy, mấy ai biết là nó đâu phải nhỏ nhoi ? Chắc lại muộn rồi, sao cứ mãi lại muộn mất rồi, thế nhân ơi ! Cuộc hẹn với yên vui lẽ nào vĩnh viễn lỡ làng ? Thắp lên, thắp thêm một nén hương. Rồi thế nhân ơi, chớ quên ném xuống những lỗ huyệt đã tự mình đào sẵn cho mình dăm cánh hoa dại cứ muôn đời lỡ độ.

Toàn Nhật tìm đâu ra được một mảnh gỗ vuông vắn. Chàng hì hục lấy đoản dao khắc tên lão Hài lên, lầm lì không nói. Khắc xong, Nhật mang ra cắm xuống trước mộ. Nhìn cánh tay của Nhật chắc nịch nhấn sâu mảnh gỗ vào đất còn ướt, Du bất giác nghĩ đến cái bút lông mềm nhũn lúc nào chàng cũng mang theo bên người. Sự so sánh làm Du kinh hoảng : cây bút ích gì cho thời buổi này, một thời buổi mà cái chân, cái thiện, cái mỹ chỉ là để tô vẽ ngụy trang cho chiều của trục gươm, sống kiếm, chiều dọc theo đóù người ta uốn nắn thế quyền. Du thấy mình nhỏ đi như một con sâu kèn. Hình ảnh Toàn Nhật râu hùm - hàm én - mày ngài đang lững thửng đứng lên, cứ to dần cho đến độ ngợp choáng không gian cái nghĩa địa trong mưa dầm gió bấc.

Bà Thơm sửa soạn hóa vàng. Bà lại nhút nhát đến gần Du, thật thà :

- Nhà cháu chỉ biết khấn vái thường thôi. Ông ấy, lính đấy, nhưng lại cũng thích thơ thích phú một tí. Xin các quan làm phúc cho vài câu ...

Nhật ngạc nhiên, suýt phì cười, quay sang nhìn Du. Ðúng là một dân tộc yêu thơ đến độ có những kẻ chết
rồi mà vẫn còn mê ngâm vịnh. Ngâm vịnh thế này, Nhật nhủ thầm, quả là một quốc nạn. Và nhất là một điều thật bất hạnh cho nàng Thơ cứ bị dày vò không ngừng trong lầu xanh chữ nghĩa. Nhật khẽ huých tay nhắc Du, lúc đó còn ngẩn ngơ nhìn theo những sợi khói chao đi trong gió nhẹ. Du trầm mặc, rồi đọc khe khẽ :

Nào những kẻ mắc vào ngũ lính

Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan

Nước bầu cơm ống gian nan

Dãi dầu muôn dặm lầm than một đời

Trong chiến trận mạng người như rác

Thân đã dành đạn lạc tên rơi

Lập lòe ngọn lửa ma chơi

Tiếng oan văng vẳng thấu trời tít cao ...

Chỉ còn nửa tháng nữa là đến Tết năm Giáp Thìn, nhưng Kinh Kỳ hầu như không vui lên được, ủ rủ trong những trận mưa dai dẳng kéo ngày này qua ngày khác. Vì ngăn sông cấm chợ, hàng quán loe hoe, người mua kẻ bán âm thầm, vội vã, lẩn tránh như những kẻ phạm tội. Giá gạo vẫn lên. Giá muối, giá đậu cũng lên. Chỉ có những cành đào, cành mai là rẻ. Như khiêu khích người, trời cho được mùa hoa. Ðào đỏ ay áy, mai vàng rực rỡ óng ả, mai trắng thanh thản, cứ nằm dài ven chợ Ðồng Xuân như thể trêu ngươi, mặc cho hàng dân đong từ lạng nếp đến dăm yến thịt lợn mỡ, lo cho một nồi bánh chưng tằn tiện đón chúa Xuân.
Tiếng chân rầm rập, rồi tiếng ngựa hí bỗng đâu vang lên, xô sự buồn thảm đi để thay vào đó nỗi bàng hoàng của hàng dân. Họ tan chợ, rồi ai về nhà nấy, ngơ ngác nghe ngóng, đồn rằng cấm binh vào vây phủ Liêu nơi Chúa ngự. Những kẻ có người thân thích trong đám quan quyền kháo nhau rằng nay Vua Lê đang lật Chúa Trịnh. Kiêu binh tiến về Phủ Chúa là chắc sắp lại có chuyện đổi rời. Cư dân ở ven đô tung ra tin quân Nhưỡng đã kéo quân về, rồi quận Thạcï cũng theo đường bộ cùng sáu người con sắp vượt qua sông Luộc.

Bật Trực bước lên chính điện Phủ Liêu, theo sau là Bằng Vũ và Nguyên Nhưng. Ngồi trên ngai, Trịnh Tông đưa mắt nhìn Khuông và Khản. Ðám kiêu binh không quì lạy theo lệ, trương mắt nhìn Tông. Trực sẵng giọng:

- Thái phi đâu ?

Nổi giận, Dương Khuông hằn học :

- Thói ở đâu mà vào đến phủ Chúa, không chào không lạy, lại hạch hỏi Thái phi ?

- Hừ, mang Thái phi ra đây ! Rắp tâm giết Hoàng tự tôn, trốn tránh thế nào được !

Nghe Vũ quát, Trịnh Tông lạnh sống lưng, tay bóp vào nhau, xương nghe lách cách. Hoàng tự tôn là Lê Duy Kỳ, bị Trịnh Sâm bắt từ lúc tấm bé, bỏ ngục cho đến ngày kiêu binh đưa ra thì đã mười sáu tuổi. Mặt mũi uy nghi, Kỳ đúng là bức truyền thần sống của Ðông cung thái tử Lê Duy Vĩ, kẻ đã bị Sâm sát hại khi Sâm lên ngôi Chúa. Vua Lê Hiển Tông đón cháu đích tôn về cung Vạn Thọ, vừa khóc vừa bảo “ ... thế là hồng phúc nhà Lê chưa dứt ”. Từ đó, Kỳ ở cạnh Vua, ngày ngày đọc sách Chu Tử, có gì thắc mắc lại đem ra luận bàn với những nhà danh nho như Ninh Tốn, như Phan Huy Ích, và có tiếng là thông tuệ. Hiển Tông rất quí Kỳ, không cho ra ở riêng, lại bắt nhận Thái tử Lê Duy Cẩn làm nghĩa phụ. ý Vua là sau này Cẩn sẽ truyền ngôi lại cho Kỳ vốn thuộc dòng trưởng nhà Lê.

Cẩn vốn thân tình với Thái hậu Dương Ngọc Hoan và Chúa. Thái phi vẫn nghĩ rằng một khi Cẩn lên nối ngôi Vua, vị trí Chúa của Trịnh Tông lại càng vững, nên luôn luôn săn đón mời mọc. Có lần, Cẩn dẫn cháu là Duy Kỳ đi theo, Hoan thấy tướng mạo Kỳ đúng là có quí phúc, đem lòng ngấm ngầm ganh ghét. Gọi một thày tướng nổi danh vào Phủ, Hoan đãi một bữa tiệc có cả Tông lẫn Kỳ. Cuối bữa, Hoan hỏi. Thày tướng nói nhỏ vào tai : “ Một người là Chúa thì người kia không thể là Vua. Một người là Vua thì người kia không thể là Chúa. Ðằng Kim, đằng Mộc, tướng khắc mà mệnh cũng khắc ... ”. Hoan nghe xong, mặt tái nhợt, đứng dậy kiếu đi nghỉ trưa.

Về đến phòng, Hoan vẫy gia nhân tín cẩn ra dặn dò. Ngoài sảnh điện, Kỳ và Tông tiếp tục uống rượu. Thêm dăm chén, Kỳ thấy nhức đầu, xin phép đi về. Bấy giờ, kiệu rước Kỳ đã về cung Vạn Thọ vì gia nhân nhà Chúa ra bảo rằng Hoàng tự tôn còn ở lại ăn yến bữa tối. Kỳ đành lên kiệu nhà Chúa, nhưng chưa đi ra đến cổng thì kiệu rẽ về phía nhà hậu. Có người vén kiệu, úp một chiếc khăn vào mặt, làm Kỳ mê đi.

Khi nửa tỉnh nửa mê, Kỳ thấy mình nằm bó giò trong một chiếc võng có hai người khiêng chạy. Kỳ cố hé mắt ra. Trời lúc đó đã chạng vạng tối. Kỳ thét “ ... bay đưa ta đi đâu ? ” Chỉ có tiếng quát nhỏ “ Nhanh lên nào ! ” và bước chân phu võng lại càng vội vã. Kỳ thấy nguy, hết sức vùng vẫy la hét. Ðám cấm binh trong đội Trung Kính nghe tiếng chạy đến giải cứu cho Kỳ, khiến đám gia nhân ba chân bốn cẳng trốn mất.
Sau khi nghe Kỳ thuật chuyện, Bằng Vũ ngẫm nghĩ rồi cho mời Bật Trực và Gia Thọ vào. Họ bàn tính gì đến nửa đêm không ai hay biết, nhưng sáng hôm sau, cả bọn nai nịt rồi kéo kiêu binh đến vây phủ Liêu hạch hỏi. Ðặng chẳng đừng, Tông đành phải cho mời Thái hậu ra đối chất. Bằng Vũ nhỏ nhẹ :

- Võng mang Hoàng tự tôn đi đâu ?

- ...

- Lối đó võng chỉ có thể ra hồ Thuyền Quang. Vậây ai định dìm chết Hoàng tự tôn ?

Mặt tái mét, Dương Ngọc Hoan lắc đầu :

- Tôi không biết !

Lúc ấy, Bùi Bật Trực vẫy tay, kiêu binh xốc nách một gã đàn ông chạc tứ tuần, đầu tóc bù xù, mặt mũi bị
đánh sưng vêu lên, mang vào đẩy cho ngã xuống thềm điện. Trực hỏi :

- Thái phi có nhận ra y không ? Ðây là người em con dì con già của Thái phi, và là một trong hai người khiêng chiếc võng bắt Hoàng tự tôn đấy !

Dương Khuông nhìn chị, mặt xanh như tầu lá. Khản chép miệng, thở dài không nói không năng gì. Bằng Vũ đằng hắng :

- Việc đã đến thế này, không giải quyết không được. Thái tử Cẩn vốn là do Tiên chúa đặt lên, xét đến công đức thì không có gì, chỉ độc có tiếng là cục đất tròn, lăn đến đâu thì lăn. Nay, Vua giỏi Chuá tài thì xã tắc mới yên ổn. Chúa có rồi, Vua già yếu, tất ai cũng nghĩ đến chuyện nối ngôi. Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ vốn là trưởng nam của Ðông cung thái tử Vĩ, lên ngôi là hợp lẽ và đúng ý của Ðức Vua. Quí vị nghĩ thế nào ?

Khuông lập cập :

- Thế là phải truất Cẩn đi à ?

Trực cười nhạt, không thèm trả lời. Khản hắng giọng :

- Việc như thế, phải có cả triều đình, không chỉ một hai người mà làm thì mới giữ được danh cho chính.

Vũ gật đầu, nhìn Tông dò hỏi. Như một cái máy, Tông lắp bắp :

- Phải, phải đấy. ý ta cũng thế, ta nói vào để việc lập Ðông Cung cho Kỳ suông sẻ, được không ?

Trực lại đưa mắt nhìn Gia Thọ, xưa vốn là thư lại của Tông. Tên này bước lên, chân quì, tay vái, miệng ráo hoảnh :

- Chúa nghĩ thế quả là phúc cho xã tắc. Toàn thể cấm binh chúng tôi xin đời đời đội ơn. Nay chúng tôi sẽ
ăn khao cái tin mừng mà hàng dân đang trông đợi ...

Tông ngạc nhiên :

- Ăn khao ?

Gia Thọ hềnh hệch cười, giọng nhẽo nhẹt :

- Vâng, khải Chúa. Tốn kém cũng không phải ít.

Người hiểu đầu tiên là Dương Ngọc Hoan. Thái hậu nay đã bớt sợ, chép miệng rồi bảo Thọ :

- Ðược, mai đến có rượu thịt ê hề cho trăm người ...

Thọ mặt dạn mặt dày :

- Ðội ơn Thái hậu, mai chúng tôi sẽ đông đủ để chúc mừng công đức nhà Chúa. Thế còn hôm nay ...

Thái hậu thở dài, xót xa :

- Hôm nay thì ta còn một nghìn lạng bạc, cứ lấy mà chia nhau. Có thế thôi, nài ta cũng chẳng đào đâu ra thêm cho được !

Câu chuyện ám hại Lê Duy Kỳ tưởng đến đấy đã xong, nhưng Bùi Bật Trực vẫn không bằng lòng. Trực vào thẳng Hoàng cung tâu với Vua Lê rằng Tông bất tài bất tướng, phải phế đi để lập Trịnh Bồng lên thay. Thật ra, lý do chính là Trực thấy với Bồng thì có vẻ thế nào cũng được, trong khi đó Tông vẫn âm thầm tìm cách khống chế kiêu binh. Vua không thuận mà cũng không chống. Ðược thể, Bật Trực tìm Trịnh Bồng nói thẳng.

Bồng nghe xong, buổi tối hôm ấy đến ẩn trong Vương phủ, kể lại đầu đuôi cho Tông và Dương thái phi nghe. Trịnh Tông mời Khản và Khuông đến vấn kế. Khuông lầu bầu :

- Thế này thì chẳng còn lề lối phép tắc gì nữa. Chúng nó làm càn đến độ chẳng còn trời còn đất, đúng là quân bất trị !

Khản bình tĩnh hơn, đề nghị với Bồng là nên rời Kinh đi trong một thời gian. Bồng nghe như mở cờ trong bụng. Mẹ con Tông không phản đối nên Bồng xin phép đi ngay để tránh sự cấm cản của kiêu binh. Khản lại nói :

- Thượng công có thể lên hai trấn Sơn-Nam gọi Quận Thạc mang quân về không ?

Bồng chắp tay, lắc đầu :

- Chuyện này, xin thứ cho. Bồng tôi đã vào cửa Phật, không đành lòng vướng vào những hệ lụy nhân sinh.

Trịnh Tông vội nắm lấy tay Bồng :

- Nhưng cơ nghiệp tổ tiên, bỏ đi sao đành ? Họ Trịnh ở ngôi chúa đã ba trăm năm, một lúc mang đổ xuống
sông hết ư ?

Nhìn vào mắt Tông, Bồng hiền hòa :

- Có sinh, tất phải có diệt. Có cơ nghiệp nào mãi mãi được ?

Thái phi Dương Ngọc Hoan chen lời :

- Còn nước, còn tát. Hay là Thượng công cần vàng. Có cần, cứ cầm lấy ba trăm lạng tôi còn giữ được đây!

Bồng niệm Phật, nhìn Hoan, nhẹ nhàng :

- Bồng tôi không cần gì.

Lúc ấy, Khuông gằn giọng buông sõng :

- Không mang chiếu gọi quận Thạc về thì không đi đâu được !

Bồng lại niệm Phật, không đáp. Khản gạt tay rồi từ tốn :

- Thượng công ở Kinh ngày nào, kiêu binh có cớ ép Chúa thoái vị ngày ấy. Nhưng tu thì cũng dăm bảy đường tu. Có khi biến, có khi thường. Lúc biến mà xử như khi thường thì mang tiếng là vô trí lự, xin Thượng công nghĩ lại cho.

Trịnh Bồng quay vái Khản một vái, miệng cười, chậm rãi :

- Thượng quan quả là người danh giáo trí tuệ hơn thiên hạ. Song với đệ tử nhà Phật, không có thường mà chỉ có biến. Rồi qui cái biến hiểu ra lẽ, thì biến lại hóa thường ở chỗ sinh, lão, tử, bệnh. Giải thoát khỏi được những cái khổ ấy, đệ tử nhà Phật thấy gốc nó ở lục căn, ngũ uẩn và tìm diệt chúng đi từ sự tỉnh thức vô tướng vô ngã để rồi chỉ nhập thế bằng từ - bi - hỉ - xả. Chuyện quyền lực không phải là chuyện kẻ xuất gia, xin Thượng quan hiểu cho, Bồng này chắp tay cúi đầu cảm tạ.

Khản vội đứng dậy đỡ lấy Bồng, mắt nhìn có thoáng ngậm ngùi, không nói gì nữa.

Nửa đêm hôm đó, Bồng đến dinh Khương Tả hầu, nói với Nhật :

- Tôi đến chào tướng quân, và nhờ đưa tôi một thôi đường.

Toàn Nhật không ngạc nhiên, chỉ đáp nhỏ : “ ... Xin mừng cho Thượng công ”.

Giắt kiếm sau lưng, Toàn Nhật cùng Trịnh Bồng đi về phía sông Nhị Hà. Trên trời, những giải sao chi chít lấp lánh mỗi lúc một xa đi với cõi nhân gian. Bọn lính tuần canh gặp chủ tướng cũ, không hỏi han gì, chỉ cúi đầu chào. Gió thổi từ phía bắc về đã bắt đầu se sắt lạnh. Bỗng Trịnh Bồng lên tiếng :

- Mắt tướng quân còn sát khí là vì tướng quân chưa giải được nghiệp. Tôi nghe kể là tướng quân đã tránh được một trường binh đao, nhưng cũng vì thế mà phải ngộ sát cha mình ...

Nhật nghe Bồng nói, hồi tưởng lại những giằng co trong tâm tưởng đêm trước ngày cấm binh làm loạn. Cũng trên bờ sông này, cũng với dòng nước cuốn xiết dưới kia, chàng đã chực buông xuôi hết, rũ áo qua bờ bên kia, bỏ lại Kinh Kỳ với những dối trá, những lọc lừa, với những âm mưu quyền lực và nhất là lòng tham muốn không bờ bến. Nhưng làm thế thì xương máu hàng vạn người phải đổ ra! Không, không làm thế được! Bỏ đi như vậy là trốn chạy trách nhiệm của một con người trước sinh mệnh đồng loại. Vũng máu kia đổ ra sẽ là niềm ân hận theo Nhật suốt đời. Và nếu thế, chắc chàng chẳng bao giờ còn dám nhìn mặt mình trong gương. Vậy thì chỉ còn một cách độc nhất : cứ để ai làm gì thì người đó phải đối đầu với trách nhiệm của mình. Nghiệp người nào, người đó trả.

Nhưng khốn khổ chưa, Lý là cha ngươi đấy, Toàn Nhật ơi ! Lý vẫn là cha ngươi dẫu mẹ ngươi chết trong dòng nước sông Lam vì cái con người bạc bẽo đó bỏ mẹ lấy công chúa Ngọc Tĩnh để rồi được tấn phong Quận Công ? Mẹ đâu ! Mẹ ! Thoắt lại thấp thoáng người đàn bà miếu Ba Cô ở đâu đó, trả lời : “ ... Mẹ đây ! ”. Gió bỗng thổi dựng đứng những hàng lau ven bờ nước. “ Con đã làm gì ? Mẹ ơi !”. Hình như chỉ có gió trả lời qua những tiếng vi vút nghe tưởng muôn đời không dứt được. Quay lại nhìn xoáy vào mắt Trịnh Bồng,
Nhật buông gọn một câu đau xót :

- Không. Không phải ngộ sát mà...

Nghẹn giọng,Toàn Nhật cố mở miệng nói tiếp, nhưng rồi nghĩ thế nào lại mím môi lại. Bồng đầm ấm :

- Ta không có, thì làm gì có cái gọi là cha Ta. Sợi dây oan nghiệp vô thủy vô chung, gọi là con cũng được mà là cha cũng thế, ai biết được cái chi trước cái chi sau ? Thôi, cởi dây ra đi ! Ðể chết có thể là cứu đấy. Ðể sống có thể lại đọa đầy thêm. Ðường trần còn dài, càng ít vướng bận càng hay.

Từ đấy, hai người không nói gì, lặng lẽ bước trên con đường dẫn về phía sông, giữa tiếng côn trùng rên rỉ và tiếng ễnh ương thỉnh thoảng lại ộp oạp vẳng lên từ bờ mương. Ðến khi tạt về mé phải là ra đến bờ sông Nhị, Bồng ngừng bước, nắm lấy tay Toàn Nhật, lại lặp lại :

- Còn duyên là còn gặp.

Nhật đứng nhìn theo bóng Bồng một mình khuất bóng sau lũy tre già ở lối rẽ.

Khi Nguyễn Khản được thăng Thượng Thư, tước Tán quận công, lo việc triều chính cho Trịnh Tông, Du quay về ở hẳn trong dinh Kim Âu. Khản nổi tiếng là người sành chơi, nhà đầy đồ cổ từ đời nhà Tần cho đến đời nhà Thanh. Còn sách xếp chật hai dãy thư phòng, từ sách Xuân Thu Chiến Quốc cho đến đủ loại Tân Thư. Quí nhất là vô số những bản thảo tự tay những khách tài tử như thủ bút của Ðặng Trần Côn, của Ðoàn Thị Ðiểm.

Dinh Kim Âu không lớn lắm, nhưng cảnh trí xếp đặt tài tình, nét phong nhã khiến xưa Tiên Chúa Trịnh Sâm phải trầm trồ khen, và mỗi khi có dịp, Tiên Chúa lại đến ngự, chuyện trò đôi khi suốt ngày với Khản. Chúa rất thích ngồi cạnh hồ bán nguyệt, ngắm một cây đa triết thụ gần nghìn năm chỉ cao bằng ba đốt tay, nghe nói là lấy từ Ðỗ-Lăng, quê nhà thơ Ðỗ Phủ.

Du ít khi ra khỏi dinh, đăm chiêu tư lự, chỉ thỉnh thoảng mời Nhật đến chơi. Khản coi Nhật cũng là loại kiêu binh, ngầm khinh khi nhưng không lộ ra mặt. Trong triều, Dương thái phi, Dương Khuông và Khản tìm cách kiềm chế sự thao túng quyền thế của đám Bằng Vũ, Bật Trực, Nguyên Nhưng và Gia Thọ. Họ chia rẽ kiêu binh bằng cách mua chuộc. Trịnh Tông gần gũi Nguyên Nhưng hơn những kẻ khác, định sắc phong cho tước Quận công, và cho hưởng một trăm mẫu công điền. Vũ, Trực và Gia Thọ nói thế nào mà Nguyên Nhưng không dám nhận, nhưng trong bụng đã hằn học. Sau đó, bộ ba lại o ép đến độ Tông uất quá, nói :

- Biết thế thì chẳng làm Chúa còn hơn !

Bằng Vũ khinh khỉnh đáp :

- Tưởng Chúa muốn nên mới lập, nay nếu không thì chúng tôi xin phò Thụy quận công lên thay !

Tông sợ, im ngay. Khuông và Khản đều lấy làm ức, tìm Chiêm Võ hầu là một võ quan khẳng khái và cầu được hỗ trợ. Chiêm Võ bàn là nên xa giá lên Sơn Tây, rồi mang quân của Hoàng Phùng Cơ về dẹp kiêu binh. Họ bí mật liên lạc với Cơ, hẹn mang thuyền đến bến Tây Long đón Chúa, sau đó tức thì khởi sự tiến công vào dinh. Việc vỡ lở, kiêu binh vào cật vấn, Dương thái phi khóc lóc :

- Nào có việc ấy, ba quân nghe đồn mà tin, làm gì có căn cứ.

Bật Trực quát :

- Chuyện đại sự không nói với đàn bà !

Trịnh Tông thót bụng lại, từ ghế ngự bước xuống, chưa kịp nói gì thì Bằng Vũ đã mím môi dằn giọng :

- Cái chuyện định ra Tây Long lên thuyền đi trốn, chúng ta biết cả rồi. Ðừng dài hơi mất công.

Từ đó, kiêu binh canh gác cẩn mật Vương phủ, người ra người vào ai nấy e dè, sợ sệt. Bọn Vũ, Trực tính đến đường truất nhà Chúa. Họ biết là hai mẹ con Trịnh Tông vẫn chần chừ trong việc phế Ðông cung Lê Duy Cẩn nên vào tâu thẳng với Vua Lê xin lập Hoàng tự tôn là Lê Duy Kỳ lên làm Thái tử. Suốt đời bị họ Trịnh ép uổng, Vua Hiển Tông thuận lòng ngay, lại khêu ý cho Vũ và Trực là sẵn sàng để cung điện làm chỗ ba quân hội bàn. Cẩn sợ quá, chạy vào Vương phủ, kiêu binh đuổi theo dẫm nát cái kiệu, chửi : “... ngôi Vua chẳng đứa nào cầu xin mà được ! ”. Tông phải ra trấn an, sai triều đình lập ngay Kỳ lên ngôi
Ðông-cung cho được lòng kiêu binh.

Bọn kiêu binh kéo nhau vào điện Vua đòi thưởng cái công truất Cẩn lập Kỳ. Bắt phiên tả sai người đánh cá hồ sen bắt lấy cá trắm làm gỏi để đãi, rồi cho kiêu binh vào cung Vạn Thọ, Vua tuyên chỉ ủy lạo và mang tiền ra phân phát. Trần Nguyên Nhưng chạy về báo cho Tông, Tông mời ngay Khản và Khuông đến hỏi ý.
Khản nghiến răng :

- Xin cho bắt và giết đi.

Khuông bực tức, xen vào :

- Không cần hỏi tội trạng gì ! Chúng cậy đông mà ngông nghênh. Ðũa bẻ cả nắm không được thì cứ rút ra một hai chiếc mà bẻ, dần dần phải hết.

Tông liền sai Chiêm Võ lấy lính phong vân vào vây bắt. Chiêm Võ người huyện Yên Lãng, đỗ Tạo sĩ, có tiếng là gan dạ. Tuốt gươm ra, Võ bảo : “ Gươm này đủ sắc để lấy đầu bọn phản tặc ”. Ðang chè chén, bọn kiêu binh bất ngờ bị vây, bỏ chạy toán loạn, Võ bắt được bảy mạng điệu về Vương phủ nghị tội. Ðám triều thần xưa nay vốn nhút nhát, sợ bị kiêu binh trả thù nên ai cũng có ý che chở họ. Khuông hằn học :

- Cứ chiếu pháp mà làm.

Tông sai đem cả bảy người chém luôn hôm đó.

Bọn kiêu binh họp nhau lại, có kẻ nói nếu nấn ná nín nhịn chịu cái kế “bẻ đũa ” thì sớm muộn cũng sẽ chết. Gia Thọ lại bàn cứ đến Vương phủ hỏi ân oán cho ra lẽ, rồi hẹn nhau khởi sự khi tan triều hôm sau.

Sáng sớm, một tốp kiêu binh bất ngờ đến vây nhà Khuông và Chiêm Võõ. Hai người này ra cửa sau, chạy thẳng đến Vương phủ. Kiêu binh vào khuâân bàn, ghế, tủ sập ra chất lên xe, lấy hết đồ tế nhuyễn tư trang rồi phóng hỏa đốt nhà. Họ chia của vừa cướp, cười nói nhốn nháo, dân hàng phố chỉ đứng nhìn ngao ngán. Một tốp kiêu binh khác ùa đến dinh Kim Âu, nhưng còn thập thò không dám vào, e rằng dinh có phòng bị. Khản ở trong nhà phái gia nhân ra ngoài nghe tin tức, nhưng họ đều bị kiêu binh đánh chết tại chỗ, không người nào về được.

Ðến trưa, kiêu binh kéo nhau vây Vương phủ, đòi mang Dương Khuông và Chiêm Võõ ra trị tội. Dương thái phi lo cho em, quên cả địa vị tôn kính của mình, đưa ra biếu một nghìn lạng vàng, quì lạy :

- ... cắn rơm cắn cỏ xin chư quân tha cho.

Bọn kiêu binh hềnh hệnh cười, bảo một nghìn lạng thì tha Khuông, muốn tha Chiêm Võ phải thêm vào năm trăm lạng. Dương phi xót của không chịu, lải nhải mặc cả. Trịnh Tông khẩn khoản :

- Giết Chiêm Võ, bẩn gươm đao. Thôi, hai trăm lạng, được nhé ...

Ba quân lại ồ ồ cười, quát ầm lên là nhà Chúa gì mà keo bẩn thế.

Chiêm Võ trốn trên lầu các nghe thấy hết, chán ngán thở dài, rút đôi song kiếm, đĩnh đạc bước xuống, nói :

- Vâng lĩnh mệnh Chúa, Võ này trước khi chết cũng lấy đầu được chục đứa loạn binh.

Ðám kiêu binh ngán võ nghệ của Võ, lùi hết lại rồi nhao nhao lên:

- Hễ động kiếm là chúng ta đốt Vương phủ, vạn lạng lúc đó cũng mất, nói chi đến hai với chả năm trăm lạng

Tông sợ quá, níu tay Võ kéo vào, năn nỉ :

- Thôi, tướng quân vì xã tắc hãy thôi đi ...

Nói rồi, Tông viết sáu chữ “Trung Nghĩa Tráng Liệt Ðại Vương ”, ban cho Võ một nghìn mẫu ruộng làm đất nối đời, và sắc phong làm Phúc Thần. Chiêm Võ vo tròn mảnh giấy bỏ vào miệng nuốt, chỉ nói :

- Tôi chẳng xin tước lộc, chỉ mong Chúa dựng lại phép nước mà thôi !

Nói xong, Chiêm Võ hiên ngang bước ra, vạch lối giữa đám kiêu binh mà đi, không mảy may hãi sợ. Có đứa hỏi “ Kiếm sắc của mi đâu ? Lúc này mi phải đền bảy mạng ! ” rồi xông vào. Võ trừng mắt quát :

- ... ra khỏi Cấm cung đã.

Ði đến chân cầu bắt ngang hào vào Vương phủ, Võ khoan thai ngồi xuống, miệng mỉm cười, nói lớn :

- Ta vâng lệnh Chúa không thi võ với bay, nhưng vẫn có thể thi gan.

Bọn kiêu binh mỗi đứa lấy một cục gạch đến đập vào đầu Chiêm Võ, máu me bắn đầy ra, nhưng đánh cả giờ mà Võ vẫn ngồi không ngã, mắt mở trừng trừng, miệng vẫn nhếch ra ngạo mạn. Ðến khi mây xụp xuống, mưa đổ như trút nước, sấm sét nổ một cơn thịnh nộ vỡ tung trời đất, thì lúc ấy Võ mới ngã ra, mắt nhắm lại.

Về phía dinh Kim Âu, đích thân Bằng Vũ phải đến để bắt Khản. Chỉ thấy một tay kiếm đi đi lại lại trong sân, Vũ ngại có mai phục, đứng ngoài vung tay làm loa vừa gọi vừa chửi Khản. Ðột nhiên, Toàn Nhật cùng chín người cận vệ xuất hiện, đi thẳng lại phía cổng dinh. Vũ ngạc nhiên nhưng chỉ cười khẩy hỏi :

- Toàn Nhật ! huynh đến để cứu cho giặc ư ?

Không trả lời, Nhật trườn mình đu lên cổng, thoắt một cái đã nhảy vào trong dinh. Vì Nhật là khách quen thường đến dinh Kim Âu, tay kiếm trong sân chỉ nghiêng đầu chào. Ði thẳng vào mé sau, Nhật gặp Du đi ra.
Mừng rỡ, Du nắm lấy tay Nhật, nhưng miệng vẩn đùa :

- Bắt phong trần, phải phong trần ...

Nhìn quanh, Nhật nói nhanh :

- Phải đi gấp. Nếu chúng kéo đến đông quá, bất lợi. Ta đã cho người sắp sẵn thuyền ở ven sông rồi ! Quan Thượng thư đâu ?

Du cười tủm :

- Lệnh huynh cứ khi lâm nguy lại đau bụng. Ðể đệ vào trình ...

Một lát sau, Khản bước ra, mặt mũi nhăn nhó, cố gượng cười :

- Ða tạ Võ tướng quân. Ðúng là Khản này được cứu mạng, làm sao đáp đền cho được !

Nhật xua tay, giọng đanh thép :

- Xin Thượng Quan cùng gia quyến sửa soạn đi mau lên, và chỉ mang theo những gì cho gọn, nhẹ.

Ðợi cho mọi người lục tục ra đến sảnh đường, Toàn Nhật quét mắt nhìn đám đồ đạc ngổn ngang, rành rọt nói :

- Các vị mang kềnh càng, chỉ làm mồi cho bọn cướp cạn rình mò khắp nơi, của không giữ được, lại có thể thiệt thân. Vậy xin mỗi vị chỉ hai tay nải, cái gì giấu được trong người thì giấu. Trai tráng nhớ giắt theo đao kiếm, có lúc phải dùng. Khi đi theo tôi, tuyệt đối không được la hét hay khóc lóc. Ðàn bà con trẻ đi vào giữa, thanh niên kèm hai bên, và không được tản ra rời hàng. Quí vị đã hiểu chưa ?

Ðến trước mặt Khản, Nhật nói vừa đủ Khản nghe :

- Xin Thượng quan giữ mình. Qua sông Nhị, ngài nên chia thành nhóm nhỏ, cải trang làm thợ gặt mà đi. Của cải vàng bạc lúc đó tìm chỗ chôn giấu, chớ có mang theo mình mà mang họa.

Vái tạ Nhật, Khản hỏi :

- Tướng quân có cần tiền để chi dùng không ?

Nhật lắc đầu. Du lật đật ôm một chồng sách ra bỏ vào túi nải, miệng cứ xuýt xoa, chắc còn đang tiếc nuối những quyển sách quí không mang theo được. Nhật bật cười, quát nhỏ :

- Du đệ. Ta chỉ cho phép mang theo bản thảo những trứ tác của đệ. Còn bao nhiêu, vứt lại hết trừ vàng.
Có vàng là mua được hết.

Ðợi đến hai khắc sau, BằngVũ vẫn không thấy động tịnh. Chẳng hiểu Nhật định làm gì, Vũ thét kiêu binh cẩn thận và cho đi gọi lính tiếp viện. Lúc ấy, đám gia nhân đang dìu Khản ra, đi đằng sau có Du. Nhật ra trước cổng, nhìn Bằng Vũ, nhỏ nhẹ :

- Bằng huynh còn nhớ tình cũ thì để đệ đem họ đi là tốt hơn cả. Nhà họ Nguyễn với đệ đây là chỗ ân tình, đệ không thể phụ họ được.

Bằng Vũ vừa quát “... vào bắt ! ” thì Nhật đã lạng người đến bên, tay trái kẹp lấy cổ Vũ, tay phải để con dao trủy thủ vào cuống họng. Bọn kiêu binh hò hét nhưng không dám làm gì. Nhật bảo Vũ :

- ... ra lệnh cho họ lùi ra, cách xa ít nhất là mười trượng, tuyệt đối không được động thủ. Nếu trái lời, kẻ mất mạng đầu tiên là Bằng huynh đấy.

Nhật đi đoạn giữa, đoạn tiền và hậu do đám hộ vệ đảm lấy, di chuyển về bến Hàm Như theo thế kiếm trận tam giác. Bằng Vũ bị Nhật nắm lấy gáy, dao kề cổ, đẩy đi, đầu cúi gầm xuống, mặt mũi tái nhợi.

Dân hàng phố ra đứng hai vệ đường, hò reo hể hả như bắt được cướp. Bật Trực và Gia Thọ được báo, kéo thêm kiêu binh ra, nhưng chỉ đi theo, không dám đến gần, quát tháo dọa nạt bàn dân.

Ðến bến, Nhật chia tay với đám thủ hạ, lấy hết tiền bạc chia đều ra, bảo ai về quê thì về, ai muốn phò nhà Chúa thì theo Khản. Họ mượn thuyền nhỏ qua sông Nhị, đám xuôi xuống Thanh-Trì, tìm đường lên Sơn-Lạng, đám đi thẳng về miệt Thái Bình.

Trên chiếc thuyền con, chỉ có Vũ, Du và Nhật. Trời đã tối, đằng xa vẳng lại tiếng trống và tiếng reo hò. Kiêu binh ập vào dinh Kim Âu hôi của rồi châm lửa đốt. Nhân dịp đục nước béo cò, vô số dinh thự của đám Công Hầu cũng chịu chung số phận. Hơn nửa những công trình xây cất từ hai trăm năm phừng phừng cháy, lửa bốc lên cao, hừng hực, điên dại, không có gì kìm chế được. Du hồi tưởng lại đống kinh, sách làm bạn với mình từ thở thơ dại, ứa nước mắt, vừa thương vừa tiếc.

Nằm chèo queo trong khoang, Bằng Vũ không biết số phận mình sẽ ra sao. Thuyền ngược nước, nhà đò ra sức đẩy, hò lên từng chặp. Toàn Nhật nghiêm nghị, nhìn Vũõ, rồi thủng thẳng nói :

- Từ vụ án Canh Tý, ta đã đoán biết Bằng huynh là người trong Nội Mật viên, lập mưu lấy cớ bắt Trọng Thức, ép thầy ta phải phế Tông lập Cán. Rồi Bằng huynh lại trở mặt, phế Cán lập Tông. Nhưng nghĩ cho cùng, kỳ thật là Bằng huynh chỉ tìm cách tiến thân, cũng muốn trở nên công, hầu, khanh, tướng ... Ðạt được rồi, song vẫn còn chưa thấy đủ, nay Bằng huynh lại mơ tưởng đến tước Vương. Bịa ra nào là «Nông chế», nào là « Chiến sách », Bằng huynh lấy chữ lòe đám kiêu binh, đem lợi riêng lung lạc dân tình, gây nên mầm chia rẽ, gieo họa cho cả nước.

Ngưng lại, Nhật nhìn về phía Kinh đang phừng phừng khói lửa, nói tiếp :

- Cứ theo lời Hàn Tử, chính sách pháp trị có hai điểm phải làm. Thứ nhất, pháp phải phổ biến ra để ai ai cũng biết. Thứ nhì, pháp phải nhất chấp, nghĩa là ai phạm vào cũng bị tội. Vừa đây, bất cứ cái gì cũng là pháp mà cũng là vô pháp, cứ theo cách suy diễn của Gia Thọ mà làm. Tệ hơn, đám kiêu binh đứng ra ngoài vòng pháp luật, rồi dùng bạo lực ứa hiếp cả thiên hạ, quả thật đã đi quá cái mức khó có ai tưởng tượng ra nổi ...Tội của Bằng huynh, Bật Trực và Gia Thọ chất cao như núi, cứ nghe tiếng oán thán trong bàn dân, tất hiểu ...

Bằng Vũ đột nhiên rú lên như thú cùng đường, đầu rúc vào sàn thuyền, mắt lạc đi, nhìn Du, nhìn Nhật, lưỡi ríu lại không nói được. Sợ quá, Bằng Vũ ỉa đái ra đầy khoang, miệng rên ư ử. Lạ chưa ? Lúc xưa chẳng có gì trong tay, Vũ hiên ngang chẳng kể chi đến cái chết trước mặt Tế Lý. Thế mà nay, có quyền có lực trong tay để ép Vua chèn Chúa, Vũ lại hóa ra khiếp nhược, khóc hu hu xin tha.

Thuyền cập bến. Nhật lên trước, rồi đưa tay kéo Du theo. Nhìn người lái đò cong lưng đẩy cho thuyền ra,
Du hỏi Nhật :

- Bây giờ ta đi đâu ?

Nhật nhắm mắt, tưởng ra trại Bùi Phong, song miệng lại đáp :

- ... chưa, chưa đi đâu hết !

Nói rồi, Nhật cởi hết mũ, miện, cân, đai ném hết xuống sông. Trần truồng như nhộng, Nhật lao người vào dòng nước, chồi lên hụp xuống, vừa bơi vừa hát :

“... Ới này sông ơi.!

Nước trong ta rửa giải mũ.

Nước đục ta rửa chân.

Nhưng chớ cạn.

Nhưng chớ kiệt..

Bởi nước cạn kiệt thì ta còn gì là ta...”

Nhật vẫy vùng ngụp lặn, sải tay bơi, rồi hụp xuống thật sâu, thật sâu cho đến độ buồng phổi căng tức ra đẩy Nhật trồi lên thở hít khí trời. Nhật lại lặn xuống, mắt mở, tưởng như nhìn thấy nào là Bố-già, là Sâm, là Huệ, là Tông ... vùn vụt trôi bên cạnh, tay cứ quờ quạng bám víu, miệng kêu cứu trong tiếng ì ầm chuyển động của dòng nước cuốn băng băng trong cơn thịnh nộ. Nhật bỗng thấy một người đàn bà đưa tay vẫy. Có phải là mẹ chàng, người quay lưng ở miếu Ba Cô trên Phố Hiến ? Chàng chỉ nhớ tiếng mẹ gọi. Gọi chàng với giọng nặng nhọc oan khiên. Những xoáy nước ở đâu nổi lên, vỡ ra, rồi lại hợp lại. Nhật nhận ra mặt Tế Lý, người bỏ mẹ đi lấy công chúa Ngọc Tĩnh con Chúa Trịnh Sâm để tìm đến danh vọng và quyền lực.

A, cái Ta, lời Trịnh Bồng đâu đó vẳng lên. Tưởng có Ta, nên tìm cái danh vọng cho Ta, cái quyền lực của Ta. Vì cái Ta của mình, Lý cam tâm phụ rẫy, bỏ mẹ chàng với cái bào thai trong bụng. Nước lại xoáy vòng làm mặt Tế Lý khổ sở nhăn nhó, chiếc cổ bị chém đứt máu loang đỏ trên mặt sông. Mắt nhìn chàng, miệng phì phào đòi lại thân mình chẳng biết là ai đã chôn cất ở đâu, khuôn mặt Lý dần dần nhòa nhạt đi, lẫn vào bóng cây ven sông, chìm xuống một vực sâu không có đáy. Cái Ta biến mất. Nó thoắt đến thoắt đi. Danh vọng, quyền lực, phú quí đi kèm cũng thoắt đi thoắt đến. Rồi cả giọt nước mắt và lời oán hờn của mẹ. Cả nỗi đau lòng của Toàn Nhật khi ném trả thanh kiếm Hoàng gia vào tay Lý, cắn răng không nhận gốc gác mình. Cả niềm ân hận dằn vặt Nhật từ mấy tháng vừa qua. Tất cả bỗng chốc hững đi như chưa hề có. Hay giả nếu có thì chỉ như một cơn ác mộng, bập bềnh rồi biến vào những bọt nước vỡ tan, trả mình lại cho lòng sông thản nhiên nhận chìm mọi điều ân oán. Ðột nhiên, tiếng ì ầm nhỏ dần đi. Dòng nước lại trở lại hiền hòa ôm Nhật vào lòng như bồng bế. Nhật nhô đầu ra khỏi mặt sông, hả miệng hét : “ Nước ơi, chớ cạn, chớ kiệt. Bởi nước cạn kiệt thì ta còn gì là ta... ”.

Lên bờ, Nhật mở cái tay nải bằng vải thô chàng mang theo từ lúc xuống trại Bùi Phong. Lôi ra ngắm nghía, rồi vuốt ve bộ quần áo thường dân nhuộm nâu có dăm miếng vá do chính tay mẹ nuôi chàng khâu cho, Nhật cảm động áp nó vào mặt mình. Nó thơm hương cốm tươi có thoảng mùi mồ hôi. Nó nhẹ tênh, khác hẳn bộ võ phục nặng nề chàng phải mang trên người từ ngày rời phố Hiến.

Tồng ngồng bước lên bờ, Nhật vuốt nước trên mặt, miệng hỏi Du « Xem ta đã sạch bụi Kinh Kỳ chưa ?»
Chẳng đợi trả lời, Nhật vươn vai ưỡn người, hít không khí tự do đầy lồng ngực, vui vẻ mặc quần áo thường dân vào. Bên kia sông, lửa vẫn bốc cao, khói bay lên nhuộm hồng những đám mây đang còn ngơ ngác sợ. Bên này, gió sông mát rượi mơn trớn những tấm hình hài đổ xuống bờ đê những chiếc bóng khổng lồ.
Bỏ lại phía sau Kinh Kỳ hừng hực cháy sáng một góc trời, hai người nhắm hướng Nam lên đường.

Chương 7
Nẻo dương gian

Trên đê nhìn xuống, làng Ða Phạn trông như một cái cù lao khoảng trăm nóc nhà chơ vơ trong màn nước nối liền vào mặt biển chạy xa ra tít tắp chân trời. Nước mặn nên chỉ trồng được đay và cói, một số giáo hữu buộc phải chuyển sang đan chiếu để phụ với nghề chài lưới, vốn là nguồn thu hoạch chính của những người sống ven biển. Những mẻ cá, mẻ tôm, những cuộn chiếu cạp điều được đem lên bán ở chợ Xuân Trường, lấy tiền đem mua thóc gạo, cám, đỗ chở về Ða Phạn. Thừa không bán được, cá mang ướp muối hoặc phơi khô. Giáo sĩ Charles-Antoine Sieyès lại tìm cách hong khói theo kiểu Âu, nhưng cá hong khói không hợp vị, ít người tiêu thụ, nên rồi đành thôi. Tuy mới phần nào ổn định, thế nhưng giáo hữu đã dành hẳn một căn nhà năm gian làm nhà nguyện.

Sau khi đợi Danh Kỷ ở bến Thanh Trì ba ngày nhưng không gặp, Trọng Thức tìm cách bắn tin cho Toàn Nhật rồi giả dạng lái buôn đi ra Ða Phạn. Thời gian đó, người của viện Nội Mật được lệnh đi dò hỏi khắp nơi để bắt Thức về nộp cho Ðặng Thị Huệ. Thừa biết là họ chắc sẽ giăng bẫy ở mọi nơi, Thức ngày nghỉ đêm đi, tránh những lộ chính, lội đồng lội ruộng ra đến bờ biển, rồi từ đấy men vào làng. Charles- Antoine gửi gấm Thức vào nhà lão Hựu chăn vịt ở tận rìa làng, tiện trốn ra bờ biển mỗi khi có động tĩnh. Ở bờ biển, lão Hựu lại giấu một chiếc thuyền con dùng để thoát thân phòng khi quan quân xô vào tróc nã.

Gia đình lão Hựu có hai người con gái là Nhu và Mì. Nhu năm nay mười sáu, mảnh mai, cao nhưng lưng hơi gù, da mặt trắng hồng, khi cười răng hở lợi, đen tuyền như những hạt na. Cô nhút nhát ít nói, nhưng giọng trong như chuông ngân, và mỗi lần hát Thánh ca là cả làng rưng rưng nước mắt. Ở nhà, hai chị em Nhu giúp mẹ đan chiếu, nhuộm điều, cạp viền rồi cứ đến phiên lại đem ra chợ. Nhu ngoan đạo, ham học nên đã bập bẹ nói được tiếng Pha- Lang- Sa với giáo sĩ Charles- Antoine, thường cầu nguyện Ðức Mẹ Ðồng Trinh cho mình được phúc lành đi tu. Từ khi Thức tới ở ẩn trong nhà, Nhu học thêm được Quốc-âm, cách dùng mẫu tự La-tinh để phiên âm tiếng ta. Nhu sáng dạ nên học rất nhanh, dùng dao sắc cắt lông ngỗng làm bút, chép Kinh Thánh và những bài Thánh ca để dạy lại giáo hữu. Ðùng một cái, Nhu ốm, mặt xanh tái, khi chóng mặt, có lúc lại nôn mửa. Bà Hựu bảo với chồng: « ... có lẽ nó ốm nghén ».

Ngày hôm sau, lão Hựu nói với Thức: « ... thầy ạ, con cháu nó cũng vào tuổi lấy chồng rồi, thầy có thương nó thì tôi cho thầy, lẽ mọn gì cũng được ! » rồi chằm chằm nhìn. Thức cầm chén nước chè xanh bốc khói, vừa uống, vừa chững chờ chưa biết đáp ra sao. Nhu đẹp, thông minh, thánh thiện. Có những buổi sáng dạy Nhu viết, chàng bắt chợt nhìn gặp những sợi tóc non nhỏ như tơ mọc sau gáy Nhu, những sợi tóc mượt mà ánh sắc xanh, mỏng mảnh nhưng dẻo dai, nồng một mùi hương thầm gọi sự sống. Có những buổi tối chàng lẳng lặng nhìn Nhu quì gối cầu nguyện, đôi vai gầy chập chờn cánh vạc bay đêm, thỉnh thoảng lại rung lên chạm vào cõi tâm linh, nài nỉ chốn thiêng liêng chút vỗ về an ủi. Có những buổi trưa nắng chói, chàng choáng ngợp trong ánh mắt Nhu, hồn nhiên tựa áng mây trời trắng ngần, nhìn chàng nghịch ngợm, viền mắt nhung đen thấp thoáng chào mời. Chàng chần chờ, bàn tay rát bỏng, chén nước nóng sóng sánh nước.

Hình ảnh Mai bỗng hiện ra trong tâm tưởng Thức. Mai không đẹp nhưng duyên dáng. Mai từ chối không lấy một vị Thái tử dẫu mai sau thành Hoàng hậu. Mai vào dinh Khương Tả hầu, vừa khóc vừa cởi áo, hiến cái trinh bạch cho chàng, quyết liệt sống chết với tình. Mai giả trai ra bến Tây Long trốn đi với Thức. Bị bắt lại, bị cùm kẹp trong dinh Trịnh Cán, nay nàng ra sao ? Lòng dạ nào ai nỡ phụ bạc một người trao thân gửi phận, đồng sinh cộng tử với mình...

Ngay buổi trưa, lão Hựu tất tả lên gặp Charles-Antoine. Ðến tìm Thức, vị giáo sĩ thì thào nói nhưng Thức chỉ lắc đầu, rồi nhờ hai thanh niên giúp mình dựng một mái lán phía biển và kê một chiếc chõng. Nhìn ra, biển trải dài tít tắp, sóng vỗ nhẹ vào bờ thành những vòng bạc xô lên cát vàng, tan ra rồi hiện lại, hằng có hằng không, trùng trùng nối tiếp. Giáo sĩ Charles- Antoine có vẻ bất bình, chẳng mời chàng về và cũng không lên thăm hỏi. Vào phiên chợ đầu tháng, bà Hựu giắt Nhu lên Bỉm Sơn. Bán xong đống chiếu, bà đưa con đến ông lang Thuần, nhìn vào bụng Nhu, miệng nói: « ... cháu nó ốm, phải chữa cho được ! Gửi cháu ở lại nhà thầy, bao nhiêu chi phí xin trả trước một phần». Lang Thuần bắt mạch cho Nhu, mắt nhìn bà Hựu, lắc đầu không nói gì.

Lang Thuần hiếm hoi, sinh được một cậu con trai đặt tên là Hình. Thời đó, Thuần ở Phủ Lý, làm nghề bói, chuyên xem Tử Vi và Dịch. Ðến khi Hình lên năm, Thuần mới biết là Hình câm, mồm chỉ ú ớ, không nói lên tiếng. Thuần bảo vợ: « ... thôi, bố lộ ¨ thiên cơ ¨ nên con chịu nghiệp, câm không nói được. Tôi bỏ, không bói toán nữa ». Thuần dọn về Bỉm Sơn là nơi chôn nhau cắt rốn, rồi dần dà bắt mạch, cắt thuốc được chục năm nay, có tiếng là mát tay. Năm mười hai tuổi, Hình ốm nguy kịch tưởng chết. Khỏi ốm, Hình bị năïng tai, gần như là điếc. Nhưng bù lại, Hình cao lên như thổi, lực lưỡng ăn làm bằng hai người thường. Bà lang thường đùa: « mồm miệng đỡ chân tay. Người có chân tay rồi ai cần đến mồm miệng ! ».

Từ ngày Nhu đến, Hình thay đổi hẳn. Mấy ngày đầu, Hình ngượng, ngay bữa cơm cũng lỉnh đi, đợi tối về lục cơm nguội ăn dưới bếp một mình. Dạn dĩ dần, nó chỉ thỉnh thoảng nhìn trộm Nhu, nhưng lúc nào cũng dành phần sắc thuốc cho Nhu. Nhu biết, chỉ cười, tay chắp lên ngực làm dấu cám ơn. Rồi Nhu dạy cho Hình chữ Quốc âm. Học được chữ nào, Hình cứ nhẩm đi nhẩm lại, dùng bút lông ngỗng, đã viết được đôi điều miệng không nói ra được. Dăm tuần sau khi Nhu đến ở, lang Thuần bảo: « ... cháu chẳng bệnh tật chi, mà cũng không nghén nghiếc gì cả. Ðến tuổi phải lấy chồng thôi ».

Ðến phiên chợ, bà Hựu lên nhà lang Thuần, nghe ông lang nói, mắt quắc lên nhìn Nhu. Khi chỉ còn hai mẹ con, bà cấu vào đùi Nhu rồi riếc: « mày động cỡn lên hóng trai, việc gì phải giả vờ giả vịt, làm tao tốn cả một tháng công đan chiếu! ». Nhu khóc rấm rứt, nhớ đến Thức, lòng vừa căm vừa buồn, vừa thương vừa giận.

Hình xin với ông bà lang cho mình theo mẹ con bà Hựu về Ða Phạn để học «chữ » . Thương con, ông bà lang đành gửi gấm, nhưng trong bụng không tin là cái chữ nghĩa vòng vèo viết bằng bút lông ngỗng có thể dùng vào được việc gì. Bà lang nói nhỏ: « ... bác ạ ! cháu nhà tôi nó phải lòng con bé nhà bác đấy, nếu thành, tôi xin gửi rể ». Bà Hựu thầm nghĩ đến cái nhà lang Thuần ngay mặt chợ sau này thế nào lại chẳng sẽ vào tay Nhu, chịu đưa Hình theo, nhưng dặn « ... để xem đã. Nhà tôi thiếu tráng đinh, chỉ có ông ấy, nay già nên cũng bắt đầu yếu rồi ». Hình mừng lắm, tay xách nách ôm, theo mẹ con bà Hựu, đi không quay đầu lại.

Từ ngày có Hình trong nhà, lão Hựu bớt khó nhọc. Việc nặng, Hình lo chu đáo, kể cả cái công lợp lại mái nhà đã bắt đầu bị dột mưa. Nhưng chẳng hiểu sao lão Hựu cứ bồn chồn, thỉnh thoảng lại đi sang tận làng trên nghe ngóng, mặt mũi đăm đăm, vợ hỏi cũng không hé răng. Về phần Nhu, nàng bắt Hình đưa mình đến túp lều nơi Thức ở, mặt vênh lên nhưng giọng lại run run, nói: « ... em đến chào thầy, nay mai lấy chồng thì còn dịp nào nữa. » rồi nước mắt cứ chảy ròng ròng. Nhưng đau đớn nhất vẫõn là Hình. Nhìn những giọt nước mắt trên má Nhu, linh tính báo cho nó hiểu hết mặc dù không biết gì cả. Nó thấy bụng nó như rỗng ruột, rồi máu bốc lên giần giật hai bên thái dương, miệng chan chát đắng, lòng cồn cào một cơn thù hận tựa bão biển nổi lên giữa mùa gió động.

Khi về đến nhà, Hình lẳng lặng xếp quần áo vào cái giỏ đan bằng lạt, nhưng Nhu giằng lại. Kéo Hình ngồi xuống đất, Nhu nhìn nó, miệng ấm ức khóc thành tiếng nhỏ. Hình thẫn thờ như phỗng đá. Nhu lấy tay mình đặt lên má nó, rồi vòng tay ra sau đầu nó đỡ lấy. Xong, nàng cầm tay Hình để vào má mình. Hình nghĩ thầm: « ... thế có nghĩa là đầu gối tay ấp ». Nhu lại thò tay rút chuỗi vòng quanh cổ có cây Thánh giá làm bằng gỗ mun màu nâu đậm. Nàng nhét cây Thánh giá vào tay nó, tay kia chỉ lên trời. Hình không hiểu. Rút trong giỏ một tờ giấy, Hình đưa chiếc bút lông ngỗng cho Nhu. Nàng nghĩ ngợi, rồi cắm cúi viết « Muốn thành vợ thành chồng thì Hình phải rửa tội và xin làm con chiên của Ðức Thánh Chúa ».

Những ngày cuối tiết Hạ Chí, gió lặng khiến bao nhiêu cụm mây trắng trên cao kia lênh đênh di động về phía biển như đi dạo mát, thảnh thơi, không chủ đích. Buổi trưa, nắng như bốc lửa, đất sình khô đi, muối trắng đọng lại thành những vệt chạy vòng vo suôi theo triền đất. Những lúc ấy, Ða Phạn im ắng đến lạ lùng. Dăm ba con cò co chân đứng, lặng yên, thỉnh thoảng mới vục đầu xuống nhổ con bọ cái sâu, rồi lại ngửng lên, thản nhiên đợi con mồi mới.

Thức gấp cuốn sách, mắt trĩu nặng, đầu như mê dần đi vào một giấc ngủ đang chậm chạp lê từng bước đến. Chợt tiềng kẻng ở đâu khua inh ỏi. Rồi tiếng mõ. Tiếng la gọi. Tiếng chó sủa. Tiếng chân người chạy bì bõm dưới ruộng ngập nước. Thức choàng dậy nhìn ra phía biển. Thấp thoáng có bóng người. Thức nhìn về phía gò Ðay. Cũng vậy. Trèo lên một chạc cây, Thức quan sát tứ bề. Lính ở đâu đã vây chặt Ða Phạn, từng tốp xiết dần vào, gươm dao sáng lòe. Vội vàng trèo xuống, Thức quơ bọc quần áo và sách vở lúc nào cũng xếp sẵn, giấu vào bụi cây gai phía sau lán. Lối ra biển đã bị chặn, Thức chỉ còn đường vào khu nhà nguyện. Lập tức, Thức băng mình chạy đi, đầu óc tính toán chọn chỗ ẩn Thức đã dự trù sẵn. Vòng vèo tránh những giáo hữu đang chạy nhốn nháo, Thức đu lên cây đa cổ thụ phía nam rồi bám lấy một chạc ba khá cao, quấn giây chão buộc mình vào thân cây cành lá xum xuê.

Dưới kia, lính tráng đang lùa giáo hữu vào sân nhà nguyện.

Kể từ cuối năm Quí Tị, Tĩnh đô vương Trịnh Sâm lại ra lệnh cấm đạo ở Ðàng Ngoài. Mươi năm nay, giáo hữu ở trấn Sơn Nam tản dần, một phần đi vào Ðàng Trong, một phần chạy ra vùng đồng chua nước mặn vùng Tiền Hải, Kim Sơn ở ven biển. Lính trấn Sơn Nam ban đầu gắt gao, nhưng sau có phần lơ là vì lẽ giáo hữu nay nghèo đến chẳng có gì để lột. Kỳ này họ vào Ða Phạn, quyết không phải là vì lệnh cấm đạo. Quả thế, họ bắt giáo hữu ngồi sắp hàng rồi lần lượt gọi từng gia đình ra bắt cung khai tên họ. Ðám tráng niên được đặc biệt chú ý, mỗi lần có hai người lính đến nhìn tận mặt, rồi so đo với một bản vẽ mặt người trong giấy ngờ ngợ nhìn như Trọng Thức.

Quan Chưởng Cơ dí bản vẽ vào mặt giáo sĩ Charles- Antoine, quát hỏi: « Người này có ở đây không ?». Charles-Antoine lắc đầu. Thầy Quản và thầy Xứ, phụ tá của Charles -Antoine cũng làm hệt như vậy. Cai Cơ, tên là Bá, thẳng tay quất cây côn vào đầu gối thầy Quản, chửi :

- Tiên sư bố mày, đứa nào không nói thì tao đánh què !

Rồi cứ thế, Cai cơ Bá cầm bản vẽ đi một vòng sân, bước đến đâu là có tiếng rên la đến đó. Hắn lấy tay lau mồ hôi, đến gần nói nhỏ với quan Chưởng Cơ. Quan gật gù, phẩy tay, ý bằng lòng. Bá lại ồm ồm :

- Không ưa nhẹ thì tao nặng. Chúa chúng bay thờ bị đóng đinh. Tao cũng mang theo đây ít cái, xem coi đứa nào có gan theo Chúa chúng bay không...

Nói xong, Bá quay sang dặn lính, rồi lại giơ bức vẽ, cười cười hỏi Charles -Antoine :

- Thằng này ở đâu ?

Charles -Antoine lại lắc đầu. Lấy tượng Chịu Nạn từ tay một người lính vừa mang từ nhà Nguyện ra, Bá quát :

- Thằng này là ai ?

Charles -Antoine từ tốn :

- Người là Gia Tô Ðức Chúa Blời, là Ðấng Cứu Thế ! Người đã chịu chết vì tội thiên hạ.

Bá ném tượng xuống đất, chân đạp lên, miệng gầm gừ :

- Tốt ! Chúa của bay giỏi thì vật chết ta xem ! Ha, ha. Ðấy, ta có làm sao đâu. Bây giờ, mày đạp lên như ta đạp ...

Charles- Antoine mỉm cười nhìn Bá rồi lại lắc đầu. Bá vung chiếc côn đánh vào đầu gối Charles Antoine, cười điên dại, thét lên :

- Giỏi, giỏi!

Lúc ấy, hai người lính dùng hai mảnh ván đóng lại, làm được một cây thập tự đang khiêng ra. Bá sai xốc Charles- Antoine dậy, chỉ tượng Chịu Nạn, gằn giọng :

- Mày đạp lên, tao tha. Nếu không, tao đóng đinh ...

Lẩm nhẩm : « Lạy Chúa lọn tốt lọn lành, người vì chúng con mà chịu nạn chịu chết, nay con xin chân Chúa như các tông đồ xưa », miệng lại nhếch cười, Charles-Antoine quay sang thầy Quản, bảo :

- Thầy dẫn cho giáo hữu đọc Kinh, rồi sẽ qua cơn nạn.

Bá dang chân đạp vào bụng Charles-Antoine, hét đám lính ra khênh giáo sĩ lên, tay quơ quơ mấy cái đinh mười phân. Giáo hữu khóc la, người giơ tay bịt mắt, người rúc mặt vào đầu gối. Dăm tiếng thét đau đớn, rồi tiếng búa tạ đập vào đầu đinh cồm cộp nghe chói vào tai.

Thầy Quản đọc to :

- Lạy Chúa, xin nhìn đến giao ước của Chúa, và xin đừng bỏ rơi mãi những tâm hồn nghèo khổ. Lạy Chúa xin hãy chỗi dậy và xét xử, xin đừng làm ngơ không nghe tiếâng những kẻ kiếm tìm Chúa. Tôi ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở chốn cao xanh…

Giáo hữu đồng thanh đáp :

- Mắt chúng tôi nhìn vào Chúa cho tới khi Ngài thương xót chúng tôi.

Thầy Quản xướng :

- Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Blời là của họ.

Giáo hữu đáp : Alléluia.

- Phúc cho kẻ chịu thử thách vì sẽ lãnh nhận triều thiên sự sống. Nếu anh em bị sỉ nhục vì danh Chúa Gia
Tô, thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên anh em.

Giáo hữu lại đáp : Alléluia, alléluia.

Cai Bá hung hăng, quất ngang ngọn côn vào đầu Thầy Quản. Thầy hộc lên một tiếng, ngã chúi xuống, mình giật lên giãy giụa, óc phụt ra trắng hếu. Bá gào :

- Ðứa nào dẫm chân lên tượng Chúa bay, ta thả cho đi.Ðứa nào không, thì ở lại đây rồi lần lượt ta đóng đinh cho về với Nước Trời của bay ...

Nói xong, Bá lại cầm tượng Chúa đi một vòng, ném xuống chân mỗi giáo hữu. Chỉ có tiếng côn đánh vỡ
xương nghe lạo xạo, tiếng khóc đau đớn trong lời Kinh vẫn vang lên từng chặp.

Avê Maria, Chúa Dêu ở cùng bà...

Thánh Maria Ðức Mẹ Chúa Blời, cầu cho chúng con lá kẻ có tội. Khi nay vào trong giờ lâm tử. Amen.
Ðến trước mặt Hình, Cai Bá lại quát :

- Cha tiên sư mày, dẫm lên ...

Nhìn sang Nhu, Hình mếu máo. Không, dẫu là người lương, nó có thể làm thế được không ? Cặp mắt Nhu đang lạc đi vì hãi sợ, sao bỗng lại lóng lánh sáng rực lên ? Có lẽ Nhu nắm lấy bàn tay nó ? A, cái bàn tay đó đã áp lên má nó, vòng qua đầu nó ! Hình cười sung sướng. Ðúng vậy, thế có nghĩa là đầu gối tay ấp cho Nhu. Hình quay sang nhìn Nhu rồi nó ngửng lên cương quyết lắc đầu. Cai Bá trợn mắt nhìn, giằng tay Nhu ra rồi thuận đà xoay người tát vào mặt, rít lên :

- Con đĩ này !

Hắn vừa đưa ngọn côn lên cao chực đánh thì Hình đã xông tới đấm thẳng vào mặt. Tên lính đứng cạnh đấy hoảng lên, phóng một ngọn kích rồi chạy lùi ra sau. Hình gục xuống, nhoi nhói đau trong ngực.

Ngọn kích đâm trúng tim Hình. Nhu ôm lấy nó. Ðúng đấy, đầu gối tay ấp là thế, Hình lại cười sung sướng. Nó cố hết sức đưa tay lên cổ Nhu với vào chiếc thánh giá bằng gỗ mun màu nâu. Tay nó quờ quạng đụng vào ngực Nhu, ấm áp, thơm mùi hồng non còn ủ trong gạo. Nó chỉ tay lên trời. Mặt Nhu ướt nhòa nước mắt. Ðấy, Hình xin làm con chiên của Ðức Chúa, phải không Hình ? Nhu ghì tay níu lại nhưng cổ Hình nhũn ra rồi oặt xuống.

Giáo sĩ Charles-Antoine Sieyès cố ngước đầu lên nhìn ánh trăng đã chếch về phía mái chuông nhà nguyện. Ông nghe văng vẳng :

« Này là đêm làm cho các người tin Chúa Kitô ngày nay trên khắp vũ trụ thoát khỏi nết xấu thế gian và bóng tối tội lỗi ...Ðêm sẽ sáng như ban ngày, đêm sẽ chiếu soi sự hoan hỉ của ta, sẽ phá tan ghen ghét mang lại hòa thuận và khuất phục mọi quyền bính ... »

Ðầu lại gục xuống, Charles -Antoine nhìn giáo hữu lũ lượt ngồi, đầu dựa vào gối, miệng lầm rầm đọc Kinh. Cảm xúc đau đớn ở hai bàn tay và bàn chân bị đinh đóng sau một chặp bỗng như không còn, nhưng cơn khát bỏng rát cổ họng vẫn đó. Charles- Antoine tưởng tượng vài giọt nước trôi qua miệng. Nó ngọt, mát, tinh khôi. Oâng mê đi, tâm trí lạc mãi đâu, về đến tận quê cha đất tổ bên kia đại dương. Ngồi cạnh mẹ ông, người đã kiêu hãnh khi ông báo rằng ông sẽ vào chủng viện đi tu cách đây hai mươi năm, ông quàng lấy vai bà. Ông nói với Emmanuel, người em giống ông như hệt, rằng trong Nước Chúa, sự công chính ở ngay trái tim mỗi người. Emmanuel nhăn mặt : « ... nhưng Nước Chúa nào có ở đây đâu, trên trái đất này ? » Charles-Antoine thì thầm : « Hãy tin và nhìn xem ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy sống can trường, và chờ đợi Chúa. Chúa phán Ta đã gọi con trong công lý, đã đặt con thành giao ước của dân để con mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người sự xiềng xích ... ».

Charles Antoine lại mở mắt ra. Ở góc sân, sương trắng phủ trên toàn thân Nhu đang nằm xoài ra ôm lấy xác Hình cứ trong dần, rồi sáng lên ánh pha lê. Hình đứng dậy, miệng cười như hoa nở, bay vụt lên không trung trong tiếng hát thiên thần, chỉ để lại cái xác đang được ấp ủ bằng một tình yêu đến muộn. Charles-Antoine mỉm cười. Ông nghe như có ai kêu « Eloi, Lamma - Sabatchtani ». Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi. Tại sao Chúa bỏ tôi ? Tại sao ? Vì trong câu hỏi đã có câu trả lời. Và trong câu trả lời sẵn ngay câu hỏi. Charles-Antoine trút hơi thở cuối cùng khi ánh trăng tan vào bầu trời gần sáng. Tiếng cầu kinh của giáo hữu như van vỉ, thảm thiết vang xa với gió sớm.

Lạy Chúa tôi, tôi ở vực sâu kêu lên Chúa tôi, xin Chúa tôi hãy thẩm nhận lời tôi kêu van, hãy lắng nghe tiếng tôi cầu xin, nếu Chúa tôi chấp tội nào ai rỗi được, bởi Chúa tôi hằng có lòng lành cùng vì lời Chúa tôi phán hứa....

Khi ánh nắng bình minh vừa lên, hàng trăm dân đinh từ Bỉm Sơn đã kéo vào Ða Phạn. Có người trốn ra vòng vây hãm của lính Huyện rồi chạy đến báo, lang Thuần vội vã trình làng rồi tất tưởi lên đường. Lúc ấy, giáo hữu đã ngồi qua đêm trong sân nhà nguyện lục đục đứng dậy. Quan Chưởng Cơ bước ra hỏi :

- Bớ hàng dân ! Ðến đây làm gì ?

Lang Thuần chẳng nói chẳng rằng bước vào sân, đảo mắt tìm, rồi tiến về phía Nhu. Ông ta gỡ Nhu ra, nhìn xác Hình nay đã lạnh nhưng môi vẫn giữ được nụ cười. Bà lang chạy ùa đến, miệng gào thảng thốt :

- Ối con ơi là con ! Con bỏ mẹ con đi đâu hả con ? Ối trời cao đất dày, làm sao bắt con tôi nông nỗi này !

Ông lang xốc Hình lên ôm trong tay, lê từng bước, mắt đỏ rừng rực. Ðến trước mặt quan Chưởng Cơ, ông nghiến răng :

- Tại sao mày giết con tao ? Con tao người lương, không phải người giáo, mày phải trả lời tao ngay ...

Quan Chưởng Cơ lùi lại một bước. Ở đâu, lão Hựu bỗng xô ra thét :

- Ði đạo thì tội tình gì ? Lạy Chúa tôi, chúng tao tội tình gì ?

Không biết làm thế nào mà có trong tay một cây mác, lão Hựu quơ tay lên chém ào ào. Quan Chưởng Cơ la toáng lên rồi nhảy về đằng sau. Lang Thuần hò : « Bớ anh em, cứ xông lên » rồi cầm cây đinh ba đâm thốc vào đám lính huyện ngạc nhiên kéo nhau vừa kêu vừa chạy.

Tráng đinh Bỉm Sơn gọi nhau ào tới, rồi giáo hữu ùa đi tìm gậy gộc dao búa cũng lăn xả vào. Lão Hựu nhướng đôi mắt rỉ toét tìm bóng Cai Bá. A, nó kia kìa. Nó chạy về phía đầm Cả. Cai Bá như con lươn, luồn bên phải, lách bên trái, lẩn mình sau rặng cói, lom khom chạy. Trọng Thức cắt dây chão, từ chạc ba leo xuống, tay chỉ lão Hựu, mồm kêu :

- Về phía bên này, nó chạy về phía bên này !

Lão Hựu quên tuổi tác, vác thanh mác chạy bổ theo, tiếng chân bì bõm lội nước. Một lát sau, Thức nghe lão Hựu quát :« Ði ra, ra ngay ! ». Cai Bá trông hệt như con chuột đồng chạy lụt, bò ra, tay ôm đầu, miệng lắp bắp nói. Lão Hựu hét lên rồi chém xuống, như điên dại, cứ thế chém, vừa chém vừa hét.
Lúc Thức đến, máu Cai Bá đã loang đỏ trên mặt nước đục ngầu gợn quanh gốc những cây cói chĩa thẳng lên trời. Lão Hựu vừa đấm vào ngực bình bịch, vừa rên rỉ :

- ... Lạy Chúa tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đường !

Ngửng lên nhìn Thức, lão Hựu nghẹn ngào :

- ... lỗi tại tôi. Tôi lên huyện báo cho huyện bắt thầy vì tôi tưởng thầy làm cho con Nhu có chửa mà định bỏ rơi ... Có ngờ đâu, bây giờ thì Cố chết, Thầy Quản cũng chết vì Chúa, chỉ có tôi đây tội lỗi, Chúa ơi ...
Thức chưa biết xử sự thế nào thì lão Hựu đã vùng chạy ra biển. Thức đuổi theo gọi lão. Lão cứ chạy. Chạy đến chỗ giấu chiếc thuyền con. Lão kéo thuyền ra, vừa đẩy vừa rú, rồi nhẩy tót lên chống sào cong người đẩy. Khi Thức chạy đến bờ, con thuyền chở lão Hựu vẫn còn trong tầm mắt, tai Thức còn nghe lão Hựu gào: « Lạy Chúa, xin thương xót linh hồn tội lỗi này. Lỗi tại tôi ...Lỗi tại tôi ... ».

Ðứng ngơ ngẩn, Thức biết rằng lão Hựu đã đi xa, xa lắm, xa như cánh chim âu đang tít mù bay về một miền chưa ai đến. Một lúc sau, chàng lủi thủi quay về. Lính huyện chết mất hai người, còn lại chạy trốn hết. Bà lang Thuần ôm xác Hình vừa khóc vừa kêu Trời kêu Phật. Giáo hữu đã hạ xác thân của Charles-Antoine từ cây thập tự xuống, đặt cạnh Thầy Quản trong nhà nguyện. Nét mặt người chết xem ra có gì hạnh phúc,
miệng vẫn nhếch lên cười một nụ cười bình thản.

Người lương ở Bỉm Sơn sợ lính huyện đến đánh trả thù. Ðến tối, giáo hữu cử hai người lớn tuổi theo họ về. Bàn bạc với nhau thế nào không biết, mấy ngày sau đó, một đoàn cả lương lẫn giáo gần năm trăm nhân mạng đưa nhau đi dọc bờ biển về phía nam.

Hình như chỉ có một mình Nhu ở lại. Nàng đến trú nhà lang Thuần chịu tang Hình ba năm. Sau đó, nàng xin tu trong dòng Mến Thánh Giá. Ðó là điều nàng đã cầu xin với Ðức Mẹ. Phép lành Mẹ ban cho nàng chắc có vấy một chút kỷ niệm thế gian hẳn chẳng dễ mà quên đi ngay được.

Về đến La Sơn, Trọng Thức nhờ người lên Bùi Phong liên lạc với Phu tử. Thời gian đó, Chúa Tĩnh Ðô vừa băng hà, Tế Lý và Tuyên phi Ðặng thị Huệ lập Cán lên ngôi Chúa nên phải ra sức đối phó với những kẻ phò Trịnh Tông. Thấy chính sự chưa ngã ngũ, Phu tử dặn Thức tiếp tục lánh mặt, nhắn rằng Tiệp Dư Trần Danh Kỷ đã ghé tìm. Nhận lời mời của một người học trò cũ, Thức đến xã Nam Hoa rồi về ở ẩn dưới chân núi Bạch Tượng.

Nơi Thức trú ngụ là một căn lán lợp lá cọ nằm khuất sau một rặng chèm, cửa mở ra hướng con suối đổ xuôi xuống Vũng Bạc. Mùa này, suối ứ nước, ồ ồ chảy. Cứ dăm ba bữa nửa tháng, người học trò lại ghé mang cho Thức vài cân gạo và chút ít mắm muối. Bẹ, măng sẵn đấy, rồi Thức lại học đặt bẫy thú và đi câu cá, cuộc sống thanh bần hóa lại thảnh thơi.

Ngồi bên bờ suối, Thức thả câu, đôi khi cả buổi mới được hai ba con cá to gần bằng bàn tay. Thời gian ở đây đi chậm hơn so với gần hai năm vừa qua với biết bao nhiêu là biến cố. Từ ngày Thức trẩy Kinh với Phu tử, vào tù trong vụ án năm Canh Tý, xuống Phố Hiến, lại về Thăng Long, rồi trôi giạt đến tận Ða Phạn ... Và bao nhiêu những con người. Dương Quang, Koji Mishima và Charles-Antoine Sieyès nay đã lìa đời. Phần người còn sống, Toàn Nhật hiện làm gì với những kẻ như Quan Chánh dường Hoàng Tế Lý ? Còn Mai, bây giờ Mai ở đâu ? Thức nhắm mắt hồi tưởng lại ngày đầu gặp Mai, tối nghe Mai đọc thơ trong Khiêm Các ở tư dinh của Hoàng Ðăng Khoa. Rồi hình ảnh Mai vào thăm Thức trong tù, giúi vào tay chàng cái gói bọc mấy quan tiền, mặt chứa chan nước mắt. Rồi cái tối hôm đó, nàng hớt hải đẩy cổng dinh Khương Tả hầu, ôm choàng lấy Thức ...

Vẩn vơ nhìn theo dòng nước, Thức để ý nghĩ của mình trôi giạt lông bông. Bật cười, Thức thầm nhủ : « thì thân ta cũng thế, làm sao hiểu được bằng ấy gặp gỡ, bằng ấy sự việc ... ». Bỗng nhiên, chàng lại nhớ Dương Quang, nhớ đến lạ lùng. Tai chàng nghe văng vẳng lời Quang nhắc nhủ : « ...Vua quan chỉ là một định ước về sự ủy nhiệm công quyền của người dân ». Mở chồng sách của giáo sĩ Sieyès cho mượn ra đọc lại, chàng ngẫm nghĩ những điều trong kinh sử của Nho giáo mà chàng vốn coi như là hiển nhiên. Mạnh viết : « Vua là thuyền, nhưng dân là nước. Thuyền không lật được nước, chỉ có nước mới lật được thuyền ». Nước là dân ý ? Dân ý có lẽ là cái ý chí , theo Rousseau, của con người đặt mình vào vị trí công dân ? Ðặt vào vị trí này, ý chí lấy đối tượng là xã hội cộng đồng. Vì cậy, nó không phải đơn thuần phát xuất từ cá thể riêng tư. Nhưng công dân là gì ? Là cái Ta-tập thể, vừa như chủ thể lại đồng thời là khách thể của những ước lệ chung. Ðó là, nói gọn lại, chủ quyền. Trên cơ sở đó, dân là chủ. Quốc gia, hiểu như tập hợp công dân, thành nền móng một xã hội đồng thuận cộng hòa. Mỗi cá nhân chấp nhận mình như công dân một quốc gia tức là chấp nhận một công ước. Từ cái công ước đó, mọi xã hội phải triển khai nội dung những giao kết thành Hiến Chương và Pháp Luật, và sau đó là ủy nhiệm ủy quyền Hành Pháp để thể hiện công ước. Về điểm này, Thức nhớ một hôm Charles-Antoine nói : « Chính Rousseau viết rằng nếu có một tập thể con của Thượng Ðế, họ sẽ có một chính quyền dân chủ. Nhưng chỉ là con người, làm sao mà có dân chủ thực sự ? Ngay khi chính quyền được ủy nhiệm, nó sẽ liên tục gậm nhấm sói mòn chủ quyền, thậm chí triệt tiêu một ngày nào đó cái công ước dựa trên dân ý ». Charles-Antoine suy nghĩ mông lung rồi tiếp : « Dân ý, Hiến Pháp và Chính quyền giống như ba ngôi trong đạo Gia Tô. Nhưng về mặt đạo, ba ngôi luôn luôn là một. Thế quyền thì không ! Ðó là vấn đề ... ». Cười xòa, ông ta làm dấu thánh giá rồi kết luận «... cũng vì thế mà tôi vẫn là con chiên của Chúa. Sự hợp nhất thành Một không có được với thế quyền thì ta đi tìm nơi khác… ».

Thức ngậm ngùi. Chàng dẫu chưa hiểu rõ, nhưng đã lờ mờ cảm nhận được cái lý do khiến giáo sĩ Charles-Antoine Sieyès dang tay chịu đóng đinh trên cây thập tự ở Ða Phạn, miệng vẫn cười khi trút hơi thở cuối cùng trong xác thân đau đớn.

Nhìn xuống nơi đặt cần câu, chiếc phao làm bằng bấc cứ trồi lên rồi lại ngụp xuống. Thủng thỉnh bước lại, Thức lần dây câu, tay kéo lên thấy nặng chình chịch. Hình như lưỡi câu vướng vào một vật gì đó. Lòng suối nông nhưng Thức nhìn không thấy đáy. Thò tay xuống mò, Thức từ dưới lôi lên phiến đá hình quả tim, nhỏ bằng bàn tay, vân nổi óng ánh trắng dưới ánh nắng. Móc lại mồi vào lưỡi câu, Thức đem thả cần xuống một chỗ nước sâu hơn. Trưa hôm ấy, Thức câu được đầy một nơm cá. Ðặt phiến đá lên nắp đậy nơm, Thức lẳng lặng đi đào ít măng non. Khi trở về, phiến đá vẫn đấy, nhưng trong nơm không còn một con cá. Thức nhìn quanh. Ai đến đây ? Vẫn không một bóng người. Chỉ có tiếng nước ồ ồ chảy xiết. Tiếng gió lao xao trên tít tắp đỉnh cây. Tiếng chim rừng xáo xác gọi nhau.

Vội vã về nhà, Thức bước vào lối sau. Ðể chiếc nơm và phiến đá vào góc bếp, Thức với chiếc gậy, rón rén đi lên. Vẫn không một bóng người. Nhìn quanh, đồ vật vẫn đấy, chẳng mất mát gì cả. Thức mở cánh liếp, buộc vào chạc cây cạnh lán. Phía trước mặt, rừng rạc xanh xám, lá lay hắt hiu trong gió. Thức tự nhủ : «... ta mê hay tỉnh đây ? Không, nơm đầy cá là chắc chắn ! ».Thức bật cười : « ... mà nơm không còn con cá nào cũng chắc chắn không kém ».

Ðêm hôm ấy, Thức đang ngủ mơ màng, tai bỗng nghe có tiếng động trong bếp. Châm đèn bước vào, Thức không thấy gì. Vừa đặt mình nằm xuống, Thức lại nghe thấy có tiếng người đang khóc. Nằm yên nhưng mắt mở, tay cấu vào đùi, Thức lắng tai. Ðúng, tiếng khóc tỉ tê, lúc to lúc nhỏ. Thức nhảy khỏi giường, lao vào bếp. Tiếng khóc im bặt. Vẫn không một ai. Bên cạnh cái nơm, phiến đá hình trái tim sáng lên một màu xanh nhớt trong bóng tối. Thức cầm phiến đá lên tay. Nó lạnh ngắt, lạnh đến làm tay chàng tê cóng. Thức mở cửa bếp, thẳng tay ném cục đá ra ngoài. Vào giường, Thức ngạc nhiên. Chẳng lẽ chàng tin rằng đá biết khóc ? Nếu không tin, sao chàng lại ném nó ra ngoài ? Nhưng đúng ! Thức không còn nghe tiếng khóc tỉ tê. Một lúc sau, chàng chợp mắt ngủ. Sáng ra, Thức nhớ mang máng hình như có ai bảo : « ... không cho trú thì trả về suối, sao lại bỏ ta vào rừng !

Tưởng đã quên chuyện phiến đá, ba đêm sau đó Thức lại nghe thấy tiếng người ở sau nhà. Lần này, là tiếng gào khóc như vì đau đớn sợ hãi. Chàng bật hồng châm đuốc đi ra. Gió đang lao xao trong lá rạc bỗng lặng hẳn. Thức dò dẫm bước tới. Tiếng gào khóc ngưng, sau đó lại tỉ tê. Ở giữa những bụi lá, phiến đá lóe sáng, cục cựa như một sinh vật. Thức giụi mắt, giơ cao bó đuốc, trừng trừng nhìn. Bên cạnh phiến đá, kỳ lạ thay, là một thiếu nữ. Nàng quấn những chiếc xiêm lớp nọ phủ lên lớp kia, toàn là màu trắng, từ trắng ngà đến trắng toát, trắng có pha màu xanh lơ, pha màu lục nhạt ... Tóc nàng dài xuống đến chân, đen tuyền, xòa ra ôm lấy tấm lưng ong. Tay che mặt, nàng ấm ức nói trong nước mắt :

- Ðại nhân không đoái đến tôi thì xin mang trả tôi về suối nước, đừng bỏ tôi trong đám lá gai này .

Thức sợ, lưỡi tê cứng, chân như bị đóng đinh xuống đất. Gió bỗng đâu bốc lên, ngọn đuốc chàng cầm phụt tắt, chỉ còn le lói ánh trăng lưỡi liềm xanh huyền ảo. Thiếu nữ quay nhìn Thức, khuôn mặt trắng bệch, mày cong, mắt sâu thăm thẳm. Nàng nhếch miệng như cười, để lộ chiếc răng khênh khểnh nghịch ngợm, e lệ :

- Ðại nhân chớ e ngại, tiện nữ là Băng Vân, đợi gặp đại nhân gần hai mươi năm tròn rồi. Nếu ngài cho phép, tiện nữ xin được thưa vài lời ...

Dứt lời, Băng Vân cúi nhặt phiến đá rồi lướt về phía căn nhà. Thức như mất hồn, chân không tự chủ, bước theo, tay đẩy cửa liếp, lách vào nhà. Vừa định châm đèn thì Băng Vân chặn lại, nói :

- Ðại nhân cứ mở cửa đón ánh trăng.Trăng hôm nay đẹp lắm.

Trọng Thức ngần ngừ rồi ngồi xuống. Băng Vân thụp xuống vái Thức ba vái, miệng thưa :

- Tiện nữ người không ra người, ma không ra ma. Xưa, tiện nữ có duyên gặp được La Sơn Phu tử nên cũng ít nhiều liên hệ đến đại nhân, là học trò và là truyền nhân của ngài. Vì oan nghiệp, tiện nữ bị giam trong
này...

Tay chỉ phiến đá, Băng Vân trầm giọng :

-...Ðã hai mươi năm ròng, muốn thoát đi để thành người hay hóa ma cũng không được. Nay cúi đầu xin Ðại nhân. Nếu người muốn tiện nữ ra ma, xin mai lấy búa đập nát phiến đá này ra. Còn giả như người rủ lòng thương cho tiện nữ trở về dương gian thì khó hơn một tí ...

Nhìn Thức ngước mắt lên dò hỏi, nàng nhỏ nhẹ :

- ... Vâng, và cần chút kiên nhẫn. Cứ mỗi ngày, Ðại nhân trích tay lấy ba giọt máu nhỏ trên phiến đá đến khi nào hiện lên một bông hồng thì khi đó thiếp lại trở lại làm người. Làm một người như mọi người bình thường trên thế gian ...

Chưa dứt lời, một cơn gió lạnh ùa đến khiến hơi thở Băng Vân như sắp đóng băng. Vội vàng, nàng thụp xuống lạy, mờ dần đi rồi biến mất. Phiến đá vẫn đó, sáng lung linh nhưng lai quay về thể vô tri, nằm trần trụi trên án thư. Thức hoàn hồn đứng dậy, tiến đến, tay nâng hòn đá lên ngang mặt. Chợt chàng nghe đâu đây tiếng cười khúc khích, rồi tiếng hát :

« Gió giận cành đào

gió bẻ cành mai

gió ơi gió, gió chẳng vì ai

chỉ vì tiếng đinh bia mà cứ một hai đọa đầy »

Một tuần liền sau đó, Thức ngày ngày trích ngón tay nhỏ ba giọt máu vào phiến đá. Mỗi lần như vậy, máu thấm như bị hút vào lòng đá, mặt đá ngay sau đó lại trắng bóng . Nhìn kỹ, thỉnh thoảng thấy mặt đá ánh lên màu hồng nhạt. Ðặc biệt rõ ràng là phiến đá đã bớt lạnh, cầm vào tay không còn buốt cóng như trước. Ðêm đêm, Thức thỉnh thoảng nghe tiếng sột soạt đi lại. Mở mắt ra, chàng không thấy ai, nhưng luôn luôn cảm tưởng có người gần gũi. Một sáng, Thức mở bọc quần áo và thấy những vết vá trên chỗ rách. Nhìn kỹ, cả những gấu quần đã sờn đều được gấp lên khâu lại. Hình ảnh Băng Vân lại lảng vảng ám ảnh. Hôm ấy, Thức không trích máu nhỏ vào đá. Rồi cả hôm sau cũng vậy.

Khoảng canh ba, đang say giấc, Thức chợt choàng dậy. Băng Vân hốt hoảng :

- Thưa Ðại nhân, người chỉ quên nhỏ máu ba ngày là bao nhiêu công sức lại tiêu tan hết.
Nhìn Băng Vân luống cuống sợ hãi, Thức động lòng. Má nàng nay đã chớm sắc hồng, con mắt lay láy đen rớm lệ. Thức chưa biết nói gì thì Băng Vân hỏi :

- Sao tự nhiên Ðại nhân lại ngừng giúp thiếp ?

Thức ngập ngừng: « Bởi vì, bởi vì ...» rồi không biết ăn nói thế nào, lảng nhìn ra chỗ khác. Một lát sau, Thức lên tiếng :

- Châm đèn được không ?

Băng Vân khẽ gật đầu rồi tự tay bật hồng khêu bấc lên. Ánh đèn vàng đục hắt bóng Thức vào vách. Nhưng lạ chưa, tuyệt nhiên không có bóng của BăngVân. Ðưa tay chỉ, Thức mời Vân ngồi xuống ghế, rồi nhẹ nhàng :

- Nàng bảo có liên hệ đến thầy ta là Nguyễn Thiếp. Liên hệ thế nào ?

Băng Vân bỗng òa lên khóc, hai tay ôm lấy đầu, nghẹn ngào không nói được. Thức không nỡ ép, im lặng nhìn. Tiếng gà gáy sáng vẳng lên từ xa như kéo Băng Vân đứng dậy. Nàng vái Thức, miệng nói :

- Khi Ðại nhân gọi tên thiếp, thiếp đến ngay. Và xin đừng quên nhỏ máu, thêm ngày nào là thiếp được ngày ấy để sớm về dương gian này.

Nói xong, Băng Vân mờ dần đi rồi lại biến mất.

Từ đó, nàng tối tối hiện ra, quét dọn nhà cửa, chuyện trò với Thức. Một tháng sau, má nàng đã hây hây đỏ, nhưng chân tay vẫn còn lạnh ngắt. Những cánh hoa hồng ngày một rõ nét bắt đầu thành hình trên mặt phiến đá. Trọng Thức quen dần, thôi không tự vấn mình là mê hay tỉnh, đã lấy đêm làm ngày, thường ngủ vào lúc rạng đông cho đến trưa. Chàng cũng không còn gặng hỏi về cái liên hệ giữa Băng Vân và La Sơn Phu tử, vì cứ mỗi lần nói đến Vân lại xúc động tưởng như đắm đuối vào một vực thẳm sâu không có đáy.
Một đêm, Băng Vân nhìn Thức rồi đỏ mặt khẽ nói :

- Ngày thiếp hoàn dương, thành người, thì thiếp xin theo nâng khăn sửa túi cho Ðại nhân, liệu chàng có khứng cho chăng ?

Thức nắm lấy hai vai nàng kéo vào lòng mình, mê đi trong mùi hương tóc thoang thoảng, chẳng biết đang ở cõi nào. Chàng kéo xiêm, Băng Vân nắm tay chằng giật lại, rồi lại thôi, bỏ ra. Bàn tay Vân vẫn còn lạnh. Ngực nàng dẫu phập phồng nhưng vẫn còn lạnh. Ðùi nàng thon dài, cứng cáp, nhưng vẫn còn lạnh. Chỉ có mặt nàng nóng bừng bừng, mắt ánh lên đam mê, môi hé ra, răng cắn nhè nhẹ vào lưỡi. Thức cúi vục mặt vào, áp môi ghì lấy, điên cuồng đắm đuối. Băng Vân đẩy Thức nằm xuống, tay đè chàng, hôn da diết từ đầu đến chân, hé miệng ngậm vào mơn trớn cho đến lúc Thức thở hắt ra, hộc lên, rồi nằm lặng đi mặc cho hồn mình phiêu lãng đến những cảnh giới hình như chưa một ai biết được.

Ðó là những ngày tháng hạnh phúc. Trọng Thức quên hết. Quên thế gian với nào là dân ý, tự do, bình đẳng. Quên quân quyền chuyên chế và câu hát của Dương Quang, bảo con chim cánh đen mỏ vàng hãy cắn nan đan lồng để bay ra, bay xa. Quên Sieyès và những giọt máu ứa ra từ hai bàn tay đóng đinh. Quên Mishima, quên cuốn « Luyện Kim Yếu pháp ». Quên cả nhát kiếm ân sủng của Toàn Nhật dứt cho Mishima một cuộc sống chỉ có mỗi ước nguyện là đổi ý người thầy mình về cách nhìn tương lai của đất nước Phù Tang. Quên Nhu, người con gái mới lớn đã chịu ngay sóng gió của tình yêu đầu. Tệ hơn, chàng quên cả
Mai, chẳng hiểu nay đã lưu lạc về đâu sau loạn Kiêu binh ?

Thức quên như thế, sống bằng những đêm mặn nồng, bỏ mặc cho ngày chơ vơ với những chuyện dương gian. Hạnh phúc không ở đó. Nó ở đâu ? Có lẽ chàng không biết, nhưng chàng vẫn chắc là những ngày đã qua đi trong đời chàng không cho chàng niềm vui để sống như hiện tại. Trái ngược làm sao, cái niềm vui đó lại có khi mỗi ngày chàng nhỏ ba giọt máu, lòng mong đợi bông hồng trên một phiến đá, miệng thầm gọi Băng Vân bằng lòng độ lượng vô bờ, và thân xác ngụp lặn trong nỗi đam mê tràn ra như thủy triều đẩy cho biển lên cao với tìm về núi.

Cho đến một hôm, cuộc phù sinh lại giạt đến bến đời những cơn bèo bọt. Bèo bọt lần này chở ngầm một cơn sóng gió. Từ tay người học trò ghé Bùi Phong rồi mang lên cho Thức là bức thư do Trần Danh Kỷ đưa người cầm ra. Thư viết :

« ... mong rằng thầy nhận lời mời, cùng ba quân vào Gia Ðịnh, trước là yên giặc, sau lại liên lạc với người Tây dương hầu giữ giao hảo lâu dài. Kỷ có nói với quả nhân là thầy thông ngôn ngữ, nhờ theo phiên dịch để tạo môi trường thuận lợi ngoại giao. Quả nhân mừng lòng, đã lâu nay trông ngóng. Vậy xin rời bước đi ngay kẻo lỡ việc quân, ngày tháng không thể nào rời đổi.

Long Nhượng tướng quân nay thư

Thái Ðức năm thứ 6, tháng giêng Quí Mão, ngày thứ 8 »

Thức xoay phong thư trong tay, hồi tưởng lại một năm trước đây câu chuyện với Danh Kỷ khi ở dinh Khương Tả Hầu trong Kinh. Phải chăng Long Nhượng tướng quân chính là kẻ Kỷ gọi là người anh hùng cái thế ? Hay là còn ai khác ? hay kẻ đó là Nguyễn Lữ, người được Nhạc vừa xưng đế lấy hiệu là Thái Ðức đã phong ngay làm Tiết Chế, thống lĩnh toàn bộ quân Tây Sơn ? Họ muốn chàng giúp một tay liên hệ với người Tây dương hòng triệt hạ một liên minh quan trọng của Nguyễn Ánh, hậu duệ nhà Chúa Nguyễn, vẫn dấy quân đóng giữ từ Gia Ðịnh trở vào. Xưa ở Ða Phạn, Charles-Antoine Sieyès đã kể cho Thức nghe về một trường đạo Ðàng Trong ở Mạc Bắc do giáo sĩ Liot đứng đầu cai quản. Liệu Liot có liên hệ gì với Nguyễn Ánh không ? Chắc chắn vấn đề sẽ không mấy đơn giản.

Ðêm ấy, Thức báo cho Băng Vân việc đi vào Ðàng Trong. Nghe đến địa danh Qui Nhơn, mắt Băng Vân lóe lên rực lửa. Nàng vội vàng hỏi :

- Có phải nơi ấy là nơi ba anh em Nhạc, Huệ, Lữ đã dấy quân rồi xưng đế không ?

Thức gật đầu. Băng Vân cầm phiến đá trầm ngâm rồi nhìn Thức nhỏ nhẹ :

- Chàng xem bông hoa. Nay có đủ cánh, chỉ còn đài hoa là chưa rõ nét. Em xem còn phải đợi đến một vài
tháng nữa em mới đi được ...

Thức choàng tay ôm Băng Vân. Nay đầu chân và đầu tay nàng đã nóng lên, nhưng lưng, bụng và ngực vẫn
còn lạnh hơn một cơ thể bình thường. Thức bảo là ngày hẹn đã gần, làm sao chùng chình được lâu. Vân nghĩ ngợi, rồi thốt :

- Em cũng muốn vào. Ở đấy, em còn con em út mà em chưa biết mặt ! Nhưng đi như thế, em lòng cứ ngài ngại, không hiểu vì sao ... Hay là ...

- Hay là thế nào ? Thức hỏi.

Băng Vân đỏ mặt, lấy tay mơn man cổ Thức, đầu ngả vào vai, lọn tóc dài chảy xuống như thác đổ trên chiếc lưng thon, miệng ngập ngừng :

- Hay là ... là ...

Vụt khỏi lòng Thức, Băng Vân vùng chạy, vừa cười vừa nói:

- ... Em không nói được.

Băng Vân lần đầu cởi phăng hết xiêm áo đêm hôm đó, đứng cuối giường nhìn Thức. Cái thân thể tưởng là mảnh mai kia giờ lồ lộ cong uốn những núi những đồi, những triền sông, bãi đất ẩn hiện trong ánh đèn dầu chập chờn. Nàng không nói không rằng, áp người nằm lên người Thức, rồi ngồi lên, đong đưa, ưỡn ngực ra, cong người lấy tay bấu vào bắp chân Thức, đảo như người lên đồng. Cảm giác Thức bị bốc xoáy vào một cơn bão nhớt nhát, khi trồi lên khi tụt xuống theo tiếng gió hú trong rừng lá xạc xào, khi lại như bị cuốn hút từ bốn bề xuống thật sâu, sâu tận đáy của một đại dương cứ thế bóp vào rồi lại nhả ra, rồi để cuối cùng phụt lên từ đáy biển một con nước nhờn, ấm, mùi tanh tanh, tràn ra khỏi bờ, làm ướt hết nửa phần dưới thân thể Thức.

Băng Vân ngật người ra, mắt nhắm nghiền, nằm thở dốc. Thức ngạc nhiên rờ rẫm. Chàng vẫn chưa xuất tinh. Thức nhìn dọ hỏi. Băng Vân hé mắt, miệng cười lộ chiếc răng khểnh, nói nhỏ :

- ... em đấy. Cứ vậy, em đẩy ra chất âm để rút ngắn con đường hoàn dương. May ra như thế em mới cùng chàng đi Qui Nhơn được.

Ðêm trước buổi sáng lên đường, Băng Vân để phiến đá vào tay Thức, run giọng :

- Chàng để bên mình. Có thương em thì nhớ rằng chớ để ba ngày mà không truyền dương khí. Tối thiểu là trích ba giọt máu - ngần ngừ, Băng Vân đưa tay vén tóc - Nay em chỉ còn phần trái tim là còn lạnh, nhưng lại là phần quan trọng để hoàn toàn thành người. Ðường xá bấp bênh, giặc cướp lại đầy rẫy, chàng tránh đi ban đêm ...

Thức trấn an, tay cầm phiến đá, vừa cười vừa đùa, hỏi :

- Này phiến đá Băng Vân, giá như tim em cứ là đá mãi thì ta giữ em trong tay, làm sao mất em được. Trừ phi ta mất chính ta. Mang tim người, liệu em có còn biết thủy chung như nay không ?

Băng Vân bụm miệng Thức lại, rơm rớm nước mắt, chặn :

- Sao chàng lại nói thế, đừng nói gở nào ...

May một bọc lụa để phiến đá vào, Thức quàng quanh cổ rồi xách gậy đi về phía La Sơn. Ðược thầy báo cho biết rằng Ngô Thì Nhậm sẽ ghé thăm, Thức định lên Bùi Phong trước khi vào Qui Nhơn. Từ ngày Kiêu binh phò Trịnh Tông lên ngôi Chúa, những người dính dáng đến vụ án năm Canh Tý đều bị tróc nã. Nhậm phải đi trốn, ở đâu lẩn quất trong rặng Hương Sơn, mỗi khi đi lại đều đề phòng cẩn thận. Khi Thức đến, Nhậm đã ở trại hai ngày trước. Nhìn Thức, Nguyễn Thiếp đăm chiêu hỏi :

- Vào Ðàng Trong ngay bây giờ liệu có sớm quá chăng ? Tây Sơn mới chiếm được một mảnh đất con con, mặt nam Nguyễn Nhạc phải đối phó với đám Nguyễn Ánh, Ðỗ Thành Nhân, phía bắc có ba vạn quân Lê - Trịnh đóng khắp Thuận Hóa, lúc nào cũng là mối lo .. Về mặt chính danh, giang sơn này vẫn là của nhà Lê, dân đói khổ ca thán thì cứ đổ cho hai chúa Trịnh - Nguyễn ...

Nhậm thở dài :

- Chúa chèn ép Vua, Vua vẽ mặt đóng tuồng cho qua ngày đoạn tháng. Còn ra, bố vợ họ Trịnh với chàng rể họ Nguyễn thì bảo con cháu đánh nhau hai trăm năm nay, vậy hỏi lấy gì mà giữ chính danh.

Quay sang Nguyễn Thiếp, Nhậm hỏi :

- Cái sấm ký về hai trăm năm nhà Chúa trị vì đã có mòi đúng rồi. Ðoan Nam vương Trịnh Tông bây giờ bị đám kiêu binh loại Bằng Vũ, Nhưng Thọ kiềm chế, lại nhân danh Vua để chèn Chúa ... Tiên sinh thử nghĩ xem có lâu được không ?

Thiếp nhìn Thức, lắc đầu, nhưng lại nói :

- Lâu thì không lâu, nhưng cũng chẳng chóng được ở cái thế tam quốc phân tranh - quay sang Nhậm,
Thiếp dò hỏi - Còn phần ông, ông tính thế nào ?

Nhậm nâng tách trà uống một hớp, móc quyển sách kẹp trong bụng ra, hai tay trịnh trọng đưa lên cho Thiếp, chậm rãi :

- Ở thế xuất, thì xuất, còn ở thế xử, thì xử. Ðây là tập « Xuân Thu Quản Kiến », trình lên tiên sinh xem xét. Trong này, tôi có luận lại vấn đề chính danh.

Quay sang Thức, Nhậm hỏi :

- Nguyễn đệ nhất định vào Ðàng Trong ?

Gật đầu, Thức cương quyết :

- Dạ, thế Ngô huynh luận thế nào là chính danh ?

Nhậm mỉm cười :

- Nghiêu được dân tôn lên là có chính danh. Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn. Thuấn chẳng phải huyết thống máu mủ của Nghiêu, dân lại yên lòng, sống trong thái hòa. Ðấy là giữ chính danh. Khi dân ca thán, chính danh bắt đầu lung lay. Lúc giặc giã tứ bề, chính danh đang lụi mà chỉ còn sức mạnh. Chỉ dùng sức mạnh là hoàn toàn mất chính danh. Theo cuộc tuần hoàn, cái mất đi luôn được bù lại. Ðó là lúc một sức mạnh mới biết mang đến một cái gì khác với sức mạnh để hỗ tương cho nó. Mệnh trời thay đổi là vậy.

Thiếp nhăn mặt, tay phe phẩy quạt. Thức nhìn Nhậm rồi nói :

- ... nghĩa là mệnh trời và dân ý hợp nhất. Là một, không tách bạch được ? Nhưng như vậy thì cứ phải loạn lạc mới biết dân ý để đổi mệnh trời ? Ngô huynh cho là không còn con đường nào khác à ?

Nhậm buồn bã :

- Không, bởi cái truyền thống từ Bắc phương đã nhiễm vào đến xương tủy của mình rồi !

Ðứng lên, Nguyễn Thiếp lẳng lặng đi ra ngoài vườn nhìn về phía chân trời. Khi Nhậm và Thức đến bên,
Thiếp chỉ tay vào đám mây đằng xa, vẩn vơ :

- Ta đố đám mây kia bay về đâu ? Nam hay bắc ? Nhìn Thức, Thiếp dặn dò - Vào Ðàng Trong, có hai thế lực, chưa biết mèo nào cắn mỉu nào nên phải cẩn trọng, không được hấp tấp. Mắc vào thì dễ, gỡ ra mới khó.

Thức không trả lời. Nhìn ánh nắng vàng trên cánh chim vút ngang tầm mắt, Thức thầm nhủ rằng mặc cho mây dạt về đâu, con chim tự do nào cũng phải tìm ra hướng bay của riêng nó.

Qua khỏi đèo Hải Vân, Thức ngoảnh lại ngước lên nhìn những cụm mây bạc đậu trên đỉnh đèo. Chàng thở phào, thầm nhủ từ đây không còn phải lẩn tránh lính tráng Chúa Trịnh. Ðã mười ngày nay chàng ngủ bờ ngủ bụi, râu ria lởm chởm, áo quần lấm bụi đất, nhưng lòng chàng phơi phới một niềm vui lạ lùng. Mỗi đêm, sau khi chàng trích tay nhỏ máu vào phiến đá đeo trên ngực, Băng Vân lại hiện ra. Thân thể nàng đã gần nhiệt độ người thường, duy chỉ ngực còn lạnh. Càng đi vào càng gần Qui Nhơn, Băng Vân càng bồn chồn.
Nàng cắn môi, rồi ngập ngừng :

- Hay ta nghỉ, đợi thêm ít lâu cho ngực thiếp hoàn toàn dứt được âm khí rồi hãy vào ?

Thức cười bảo :

- Cái hẹn với Long Nhượng tướng quân nay sắp đến. Cứ vào, rồi sẽ tính sau. Nếu cần, ta sẽ xin ở lại Qui nhơn, hẹn Kỷ sẽ theo vào Gia Ðịnh, đợi khi em đã hoàn dương...

Băng Vân vuốt tóc, rồi nói :

- Lạ thật, em nửa muốn đến ngay, nửa lại cảm thấy thế nào ấy, cứ ngần ngại.

Thức nghe chỉ cười xòa, tiếp tục con đường vào Qui Nhơn.

Vào địa hạt Quảng Nam, cư dân thưa dần, sắc phục cũng khác ở Thuận Hóa. Từ khi có lệnh của Chúa
Trịnh cách đây sáu năm, dân chúng từ Phú Xuân trở ra phải thay đổi ăn mặc theo kiểu Ðàng Ngoài. Ở đất Quảng, gần nửa vẫn là cư dân Chàm. Ðàn ông quấn mình bằng những giải vải màu trắng, choàng lên vai rồi vắt ra sau lưng. Ðàn bà dùng nhiều giải vải hơn đàn ông, lại chen đỏ hoặc xanh hay vàng vào, trông rất rực rỡ nhưng vẫn thướt tha, uyển chuyển. Họ che mặt bằng một loại nhiễu thưa màu ngà, tóc hoặc vấn đến đỉnh đầu, hoặc để dài quá vai, thường là buông đến ngang lưng. Cả đàn bà lẫn đàn ông đều đi chân trần, và nhà nào cũng để ngay ngoài cửa một bình nước và chậu để rửa chân. Cửa nhà họ lúc nào cũng để trống, ngay gian ngoài có giải một loại thảm thêu sặc sỡ, xung quanh xếp những chiếc gối. Ðến giờ ăn, khách dự bữa mà không cần hỏi. Ăn xong muốn đi thì đi, cũng không ai hỏi tới, chỉ nghiêng người cười chào nhau. Cứ ngày ngày ba buổi, họ im lặng quì rồi dập đầu xuống đất, nghe tiếng đọc kinh như người ê a hát bằng thổ âm vang đến từ một tầng tháp cao ở đâu đó, miệng đồng thanh kêu Allah, thượng đế của họ.
Riêng ở Quảng, một vị quan người Chàm trông coi bàn dân. Quan có quyền đi giầy, ăn mặc như mọi người Chàm, chỉ đeo thêm một giải đai thắt quanh bụng. Thường ra, luôn luôn có một vị thư lại người ta đi kèm vị quan Chàm, và việc gì cũng cần sự đồng ý của vị thư lại, kể cả những sự vụ như tang ma, hiếu hỉ, kiện tụng.

Về phía dân Kinh, họ vừa di cư đến lâu nhất là khoảng chục năm nay. Y phục của họ là một thứ nửa Chàm, nửa kiểu Ðàng Ngoài, nhuộm nâu, hoặc đen. Bị ảnh hưởng của môi trường người Chàm, sinh hoạt của họ phần nào cởi mở hơn ở Ðàng Ngoài. Họ thường tụ lại lập làng mạc, khác với người Chàm sống rải rác, biệt lập hơn. Ðặc biệt, dân ta theo đạo Gia Tôâ rất đông, lắm nơi cứ mỗi ba người là có một giáo hữu. Ở phía bắc Quảng Nam, và nhất là ở Hội An, trong số giáo hữu lại có người theo Tin Lành bởi sự có mặt của một số giáo sĩ truyền đạo người Anh và người Hòa Lan ở đó.

Thức dừng bước lúc trời gần tối. Chàng đến chân một trong ba chiếc tháp chiều cao chừng gần hai trăm thước ta. Làm bằng gạch màu mai cua, lại không hề có vết ghép nối, Thức nhìn tưởng ra như cả khối đất khổng lồ được nâng lên thành chiếc tháp gạch sừng sững, đỉnh nhọn hoắt chĩa lên trời cao làm chứng cho cái tài tình của những con người cấu tạo ra nó. Trong thinh không bỗng văng vẳng lời đọc kinh ê a than vãn, cầu xin từ cõi linh hiển nào đó những ân huệ thiêng liêng cho chốn trần gian.

Tựa tay vào vách tháp, Thức bồi hồi ngẫm lại. Hai trăm năm trước, chốn này kinh đô một vương quốc huy hoàng. Ðằng xa, thung lũng dưới chân đồi kia là thành Ðồ Bàn, nơi xưa công chúa Huyền Trân đời nhà Trần đã nên duyên cùng Chế Mân. Món quà cưới - đúng hơn, là món thách cưới - là hai châu Ô, Rí chàng vừa đi qua. Của hồi môn có gì, ngoài hai câu dân gian mai mỉa: « Tiếc thay cây quế giữa rừng. Ðể cho thằng Mán thằng Mường nó leo »!

Thức phạt cỏ ở một góc cạnh tháp rồi bắt võng, mở gói lương khô ra. Mặt trời đã khuất sau lưng núi, nhưng ráng đỏ vẫn còn luẩn quẩn ở nơi trời liền với biển. Một đoàn dăm người Chàm đi qua chân tháp, gặp chỉ lẳng lặng cúi chào Thức, tiếp tục nối đuôi nhau, những chiếc áo choàng trắng xa dần rồi thấp thoáng sau những lùm cây trong rừng. Thức nhắm mắt mơ màng, mặc giấc ngủ ập đến.

Nửa đêm, Thức choàng dậy. Băng Vân tay kéo áo chàng, miệng nức nở, tay chỉ :

- Chàng ơi, thiếp sợ lắm ... Xem kìa, chàng có thấy không ?

Thức lắc đầu.

- Ông ấy cứ chòng chọc nhìn thiếp nẫy giờ, chàng không thấy gì à ? Ông ấy đòi bắt thiếp đi ...

- Ông ấy ra làm sao ?

- Ông ấy choàng áo vàng, đầu đội mũ nhọn hoắt có đính một viên hồng ngọc, mặt đầy râu, tay cầm kiếm... Ðúng, ông ấy lại trợn mắt lên... Ơ, lạ chưa, trông như Ðèo Kha, phải... tay kia ông nắm cây sáo đinh bia. Ðấy, ông ấy thổi sáo... Chàng nghe thấy không ?

Thức lại ngơ ngác lắng nghe, rồi lắc đầu. Băng Vân chui vào lòng Thức, ôm chặt lấy. Thức chưa kịp nói gì thì Băng Vân đã biến vào phiến đá. Chàng tự hỏi :

- Lạ thật ! Mà ai là Ðèo Kha nhỉ ?

Theo đường chính, Trọng Thức vào thành Qui Nhơn khi mặt trời lên đúng ngọn cây. Chu vi thành khá rộng, cách kiến trúc gồm hai lớp. Tường thành lớp ngoài đắp bằng đất trộn với vỏ dừa và tre bện lại, cao khoảng ba đầu người, trên có đường đi lại, có chỗ để những ụ súng lớn và chi chít lỗ châu mai cho súng nhỏ. Lớp tường ở trong là tường cổ do người Chàm xây bằng đá ong đều đặn xếp chồng lên nhau, cứ mỗi trăm thước lại đặt một chòi canh cao nghễu nghện. Dinh thự của hàng quan lại nằm trong nội thành, thường là còn sơ sài giản dị trừ nơi Vua Tây Sơn ngự.

Cư dân ở Qui Nhơn khá đông. Họ họp chợ ở phía Nam khoảng giữa hai lớp tường thành. Ðến từ tứ xứ, người Kinh có, người Chàm có và cả những người Ra-đê chít khố, mình trần trùng trục, thồ vào thành ngô, sắn, và thú săn để đổi lấy muối, dầu hỏa... Binh lính ăn mặc kiểu thường dân, chỉ quấn quanh lưng một giải vải điều và mang ở chân một loại dép làm bằng da trâu thuộc có sỏ những sợi dây buộc túm vào ống quyển.
Ðến chân tường bao quanh nội thành, lính canh ở trạm gác chặn Thức lại hỏi. Khi nghe Thức tìm gặp Trần Danh Kỷ, họ lễ phép mời Thức ngồi, rót nước mời uống, rồi vào báo. Nhìn người lính tóc hoa râm tiếp mình,
Thức dè dặt hỏi :

- Bác nói giọng nghe như tiếng Ðàng Ngoài ?

- Ðúng, tôi họ Hà, từ Nghệ vào đây được một giáp, từ ngày Tây Sơn xưng vương. Còn Bác ?

- Tôi ở La Sơn mới vào ... Ðời sống ở đây thế nào ?

Người lính châm điếu cày, rít xong, trả lời :

- Cũng tốt, đỡ đói hơn là ngoài đó. Trong này, không có chuyện quan quân ức hiếp dân nên dân dễ thở.
Còn là lính thì cứ chinh chiến thôi, được cái gia đình có đồng ra đồng vào, khỏi phải lo cái ăn ...

Chưa dứt lời, một đoàn người cưỡi ngựa trờ tới. Người dẫn đầu nhảy xuống đất, chân đi ủng, lưng quấn giải khăn vàng, tay cầm gươm, đi thẳng vào trạm gác. Người lính già kính cẩn chào, mắt nhìn về phía Trọng Thức. Chắp tay chào Thức xong, người đó nói, giọng nặng nghe rất khó, tay chỉ vào một con ngựa không có ai cưỡi. Thức hiểu ý, lên lưng ngựa.

Ðoàn người lại lên đường. Ngựa Thức cưỡi được kèm hai bên, đằng trước là người chân đi ủng, vừa ra roi, vừa quát. Ngựa chạy vòng đường thành nội về mé Tây, đến một cửa thành lại không vào, rẽ sang hướng Nam. Chạy thêm một quãng, bức tường thành lớp ngoài đắp bằng đất đã trong tầm mắt. Thức ngạc nhiên, nhưng cả đám lính đi kèm cứ tiếp tục giật cương cho ngựa chạy. Họ ra khỏi ngoại thành.

Thức hỏi lớn :

- Ta đi đâu vậy ? Tôi muốn gặp Trần Danh Kỷ cơ mà !

Hai người lính kèm bên ngựa Thức giơ tay ra nắm mỗi người một sợi cương, không nói không rằng, cứ thẳng đường trẩy ngựa. Một lát sau, họ rẽ vào một con lộ nhỏ, cho ngựa chậm chạp lại, rồi ngừng trước một căn nhà. Người đi ủng nhảy xuống gọi. Cửa mở, hai người dân binh đi ra. Họ thì thào với nhau. Người đi ủng đến bên, đỡ cho Thức xuống ngựa, rồi nói :

- Phiền ông nghỉ lại đây. Trong thành nước tôi đang chuyển quân. Chuyện quân quốc là đại sự, không để cho người nước ngoài biết được nên buộc lòng phải giữ ông ở đây vài ngày ...

Thức thầm nhủ : « À, thì ra mình là người nước ngoài », bực mình hỏi lại :

- Ai bảo đưa tôi đến đây ?

- Tôi là kẻ dưới chỉ thừa hành lệnh trên.

- Lệnh từ đâu đến ? Trên là ai ?

- Trên là trên cao lắm, tôi không biết !

Người đi ủng đưa mắt làm hiệu. Hai người dân binh đến cạnh Thức, mỗi người nắm lấy một tay, rồi lôi Thức vào trong nhà. Một người kéo chiếc chõng tre, rồi mở nắp hầm ở dưới. Họ đẩy Thức xuống, đóng cửa hầm lại.

Nghe tiếng đặt chiếc chõng lên nắp hầm, rồi tiếng vó ngựa mỗi lúc một xa, Thức mím môi, quờ quạng trong bóng tối. Chàng nén bực bội, bình tĩnh suy xét tình thế nghĩ cách tiến thoái. Dĩ nhiên, không phải là Kỷ ra cái lệnh đón tiếp chàng theo kiểu oái oăm thế này. Lại chẳng phải Long Nhượng tướng quân, người đã viết thơ mời chàng. Có lẽ, có lẽ chỉ là một tên quan võ lo việc giữ bí mật quân cơ đối với bàn dân. Và cứ thấy người ¨ nước ngoài ¨ là hàm hồ lo bảo mật !

Vào khoảng tuần sau, người ta mở nóc hầm đưa Thức lên. Một đoàn người ngựa đã chực sẵn, kèm Thức vào nội thành Qui Nhơn, đưa thẳng đến điện Thái Hòa, nơi Vua Thái Ðức nhà Tây Sơn coi việc triều chính.

Thời gian ấy, nhân mặt Bắc không có gì đáng ngại vì đang loạn kiêu binh, nhà Tây Sơn quyết định phải dứt khoát thanh toán đám quân Chúa Nguyễn trong Nam. Theo nước dòng, Tiết Chế Nguyễn Lữ đã dẫn thủy quân đi từ cửa Thị Nại vào Cần Giờ, và Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ đưa bộ binh xuống Bình Thuận trên con đường tiến ra Gia Ðịnh. Cờ ba quạt chăng lên tiễn ba quân lên đường chinh chiến vẫn còn la liệt khắp nơi. Dân kháo nhau là chiếm xong Gia Ðịnh, hẳn sẽ có những gia đình buộc phải rời vào lập nghiệp trong đó, nên không khí khá xôn xao hăm hở.

Gọi là điện, nhưng Thái Hòa chỉ là ba giẫy nhà, mỗi giẫy có tám gian bọc thành hình vuông, một mặt ngỏ nhìn ra phía biển. Nhà xây bằng gỗ lim, chính điện trông không khác gì kiến trúc một gian nhà thờ họ. Thức ngồi chờ ở gian ngoài một lát thì có lệnh cho vào. Trên một chiếc ngai có phủ da báo, Nguyễn Nhạc người to lớn, mắt lộ, môi dày, răng hơi hô, da sần sùi đen như củ súng, ngồi vắt chân chữ ngũ. Mặc một bộ quần áo màu vàng có đính kim tuyến, đầu đội mũ triều thiên, tay cầm một chiếc quạt ngà, Nhạc nhai trầu, nước ứa ra khóe mép đỏ lòm.

Hai người lính đưa Thức vào quì xuống hô « Hoàng đế, vạn vạn tuế ! ». Nhạc phẩy tay đuổi ra, rồi chòng chọc nhìn vào mắt Thức, nhổ bã trầu, quệt mép quát :

- Mi người nước ngoài không biết phép tắc chi cả sao ? Mi gặp thiên tử nước mi, mi cũng chong mắt lên mà nhìn à ? Chúa Út đâu ? - Nhạc đảo mắt tìm - Gọi cho ta Chúa Út ra đây !

Quì một gối, Thức chắp tay vái ba lần, đĩnh đạc :

- Kẻ tiện dân này chưa bao giờ có diễm phúc được diện kiến một vị Thiên tử, nay vừa sợ vừa mừng, quên mất phép tắc, xin lấy lượng cả bao dung cho !

Hừ một tiếng, Nhạc hỏi :

- Mi vào tệ quốc làm gì ?

Nghe hai chữ tệ quốc, Thức suýt phì cười, cắn răng lại, đầu cúi xuống ghìm hơi cố giữ để khỏi thất lễ với vị Thiên Tử. Nhạc lại quát :

- Nói ngay !

- Kẻ tiện dân được Trần Danh Kỷ gửi người đến, đưa thư gọi vào, nên tuân mệnh đến quí quốc ...

Nói đến chữ quí quốc, Thức lại cắn môi, nhịn cười, thành ra ấp úng. Nhạc dịu giọng, tay chìa bức thư của
Long Nhượng tướng quân ra :

- Ta biết rồi, nhưng ta hỏi mi làm gì chứ không hỏi tại sao mi đến quí quốc ...

Bỗng có tiếng cười khanh khách, rồi một giọng trong veo vẻo cất lên :

- ... Sao mi đến nước ta ! Hắn nói quí quốc thì được, nhưng Hoàng huynh thì phải bảo là nước ta chứ.

Thì ra Chúa Úùt là một người con gái chạc đôi mươi. Nàng mặc xiêm màu ngà, tóc vén cao, lưng đeo kiếm, nhanh nhẹ đến bên Nhạc cúi chào rồi đứng bên cạnh. Chúa Úùt mình dong dỏng, mắt xếch, nhìn thoáng Thức thấy nàng có nét mặt từa tựa như Băng Vân, cười cũng lộ ra một chiếc răng khênh khểnh, duy chỉ có da là ngăm ngăm đen. Nhạc khạc đờm, nhổ vào chiếc ống nhổ, gằn giọng :

- Thằng Huệ và thằng Kỷ gọi mi vào đây làm gì ? Chắc đâu phải chỉ đi phiên dịch với bọn Tây dương. Ta biết thằng Kỷ nó đi khắp nước mi, ra đến tận Thăng Long tìm người phò thằng Huệ. Mi gặp thằng Kỷ hồi nào ?

- Kẻ tiện dân gặp ở Kinh năm ngoái, nhưng đây là lần đầu được nghe đến Long Nhượng tướng quân, chưa hề có liên lạc gì ngoài cái mối sơ giao với Trần Danh Kỷ.

- Ðứa nào dính vào thằng Kỷ đều là phường nối giáo cho giặc, không tin được.

Thức ngạc nhiên, hỏi :

- Kỷ giúp việc Long Nhượng tướng quân, tướng quân vừa là bề tôi, vừa là em của Hoàng Thượng, sao gọi là giặc ?

Biết mình lỡ lời, Nhạc nhìn Chúa Úùt, át tiếng :

- Láo, láo thật. Ðến nước người mà dám vặn vẹo vua nước người ta thế à ? Cứ thấy mấy quyển sách trong nải của mi là ta biết mi có được ít chữ nghĩa, bất quá có gì mà ta phải sợ !

Ðúng lúc ấy, Chúa Úùt nhếch miệng cười :

-Ðúng, Hoàng huynh ta oai trùm trời đất, có gì mà phải sợ. Cái mạng mi, Hoàng huynh ta tha cho sống là may cho mi rồi - nàng ngước nhìn Nhạc, tiếp - chứ một mi hay trăm mi bắt chết cũng phải chết, khó chi mà không làm ...

Nhạc hể hả, cười ầm lên, vỗ đùi rồi quát :

- Thôi, lôi đi thằng này đi cho khỏi bẩn mắt ta, lôi ngay ra. Làm gì mà phải sợ... Hà, hà.

Lính lôi Thức bỏ vào ngục. Lần này, chàng bị đóng gông, đêm đêm phải cắn ngón tay lấy máu nhỏ vào phiến đá Băng Vân. Chàng ngạc nhiên khi thấy Chúa Úùt quả có giống Băng Vân, nhất là giống chiếc răng khênh khểnh, lộ ra khi cười trông như trêu ghẹo. Phải chăng Chúa Úùt chính là em nàng ? Thức gọi tên, nhưng trái với định ước, không thấy Băng Vân hiện ra. Chàng nhìn vào phiến đá, thấy cái đài hoa hồng đã dần dần lên sắc đỏ. Ngẫm lại thân mình, Thức bật cười. Lần vào tù ở Thăng Long còn có chút lý do. Lần này, thì thật không ! Và rồi cũng chẳng có thể đoán mình sẽ ra sao ! Chàng bỗng nhớ Dương Quang, bắt chước cao giọng hát:

«… Này con chim cánh đen. Mỏ vàng mày nhọn. Chiếc lồng nhốt mày bằng nan mục nát. Hãy phá cho tan rồi bay ra, bay xa »

Hai tháng sau, Thức cứ ngỡ người ta đã quên mình thì chợt vào một buổi giữa trưa, một đội lính lưng cạp vải đen đến, trói gô chàng lại rồi bỏ lên một chiếc xe thồ, đánh xe chạy về phía cửa Thị Nại. Ðến bìa rừng Bồng, họ ngừng lại, xách Thức vào, lấy giây chão trói chàng vào một thân cây. Thức sởn tóc gáy. Vùng này nổi tiếng là lắm hổ. Nếu không bị hổ vồ, cũng chết vì đói khát. Thức không làm gì được, ngước mắt lên trời kêu một tiếng. Chàng lại nhớ đến tiếng kêu của giáo sĩ Sieyès phút cuối cùng « ... Lạy Chúa tôi, tại sao Chúa lại bỏ tôi ? »

Bọn lính lẳng lặng bỏ về, không nói lấy một lời. Ðầu tháng tư, gió bắt đầu hầm hập nóng. Trên cành cây trước mắt, một lũ khỉ đến đánh đu, giương mắt nhe răng nhìn chàng, rồi chí chóe với nhau. Chàng gọi « Băng Vân, Băng Vân ơi » nhưng biết là vô ích vì nàng chưa thể ra được ánh sáng mặt trời. Thức nhìn lên. Ít nhất là phải đến đầu giờ tuất thì Băng Vân mới hiện được. Vậy là còn ba giờ nữa. Chỉ cầu là hổ báo đừng đánh hơi tìm đến. Mấy chú khỉ mon men đến gần, lấy chân khều khều Thức. Bỗng chúng kêu eng éc, rồi nhốn nháo leo lên cây, chạy nhảy toán loạn. Thức thót dạ, hổ hay báo ? Hay trăn, hay rắn ?

Không, không có hổ báo. Một toán người vạch lá tiến đến, dẫn đầu là Chúa Úùt. Nàng reo lên « Ðây rồi » và rút dao quắn ra cắt dây chão trói Thức. Ðúng lúc đó, có tiếng sột soạt trong đám lá cây trước mặt và tiếng khịt của một con thú lớn. Chúa Úùt cười, bảo đồng bọn :

- Chỗ này lắm hổ đói, cẩn thận nhé. Quay sang Thức, nàng tiếp - Ông còn may lắm đấy ! Hôm nọ, ông nhớ không, Hoàng đế bảo đâu có bắt ông chết, tha cho sống mà ! Nàng khúc khích - Tôi đến thả ông là làm đúng lời truyền; vả lại thế là tránh được lôi thôi với anh ba tôi ... Không thì lục đục với nhau chẳng biết thế nào mà tránh được.

Nàng nghiêm mặt, giọng trở nên đứng đắn :

- Tôi chỉ xin với ông là khi gặp anh ba tôi, tức là Long Nhượng tướng quân, đừng nói lại việc bị trói trong rừng. Xuống bờ biển, tôi đã sắp sẵn thuyền rồi, ông cứ theo gió, theo dòng là xuôi vào Nam. Trên thuyền, sẵn lương khô và bản đồ. Trần Danh Kỷ theo anh ba tôi, chắc cả hai vẫn chờ ông trong Gia Ðịnh.

Chúa Úùt chắp tay chào và về. Ðám tùy tùng nàng hộ tống Thức đến cửa Thị Nại. Thức lên thuyền, chống cho ra xa bờ, tay sờ lên ngực nắm lấy phiến đá. Mặt trời lặn trên cửa biển. Trên cao tít, trời chi chít sao. Thức lại vừa chết đi sống lại. Chàng nhìn lên tìm vì sao bản mệnh mình đang lấp lánh đâu đó, mong nó đừng lìa vũ trụ này một cách vô lý như những ngày tù ngục vừa qua.

Hai ngày liền, Thức ghìm tay lái cho thuyền chạy dọc ven bờ, mắt lấy những hàng dừa xanh làm chuẩn, giữ hướng nam thuận giòng trôi đi. Mây trên trời xanh lơ lửng trôi theo gió cao lồng lộng, bồng bềnh như bông hiền hòa trong những bức tranh vân cẩn. Thức ngả lưng vào mạn thuyền, mơ mơ màng màng nghĩ đến những ngày vừa qua, lắm khi tưởng như là không có thật. Ðêm đến, Băng Vân lại hiện ra. Ấp tay lên ngực nàng vẫn còn lạnh, Thức nhắc chuyện Chúa út có nét giống Băng Vân, đã cứu mạng chàng, và thắc mắc không hiểu sao vua Tây Sơn lại định tâm bắt chàng tội chết. Hỏi, Băng Vân chỉ đáp :

- Nó chính là em của thiếp, đẻ ở Ðàng Trong nên thiếp cũng chưa biết mặt. Mỉm cười, Băng Vân vui miệng-
Thế ra là hai chị em nhìn giống nhau thật hả ?

Thức khêu cho Băng Vân nói thêm, nhưng nàng chỉ nép vào lòng, bảo :

- Trên đường vào Ðàng Trong, em trượt chân ngã xuống suối ở chân núi Bạch Tượng, bị giam hãm trong phiến đá này. Lúc ấy, em có ba đứa em trai, chưa có đứa em gái nào. Chàng có hỏi thêm, em cũng không thưa được. Chỉ xin chàng tin là em hoàn dương là để nâng khăn sửa túi cho chàng, như em đã nói ... Cái duyên đẩy cho chàng gặp em, cả nghìn năm mới có một lần ở cõi nửa tiên nửa trần, vậy chớ có lỡ lầm ...
Ôm Vân vào lòng, Thức trầm ngâm tưởng lại những ngày qua. Hạnh phúc của sự sống, cạnh một Băng Vân dẫu chỉ sắp thành người, thực sự là có với Thức ở chân núi Bạch Tượng, nơi có tiếng suối reo cho những đêm mặn nồng chăn gối. Ra khỏi cái cõi riêng tư tuyệt vời đó để vào cõi người ta, Thức sa ngay chốn tù ngục mà chẳng rõ lý do, chứng kiến ngay chuyện binh đao chém giết mà động cơ vẫn cứ rặt là quyền lực và lòng tham mù quáng. Chàng nhìn vào cặp mắt ướt át của người yêu, dịu dàng:

- Hay là ta về, bỏ quách cái cõi đời cho người đời. Có ta, đời chẳng hơn gì. Không ta, biết đâu đời lại không bớt đi vài niềm đau khổ ? Em nghĩ thế nào ?

Ngạc nhiên, lần đầu Thức nghe Băng Vân rít lớn : « Không, không ! ». Nghiến răng lại, rồi quay nhìn về phía
Qui Nhơn, Băng Vân tiếp, mắt rừng rực lửa :

-... để ngày nào em thành người là ta sẽ lại về Qui Nhơn hầu giải cho sạch cái nghiệp cũ. Khi ấy, em sẽ cùng chàng tìm núi cao rừng sâu vui vầy, chẳng còn gì để dính dáng vào cuộc thế này nữa.
Thức gặng : « cái nghiệp nào ? » nhưng Vân mím miệng lắc đầu không nói. Nàng kêu lạnh, run lên bần bật, rồi lại biến vào phiến đá.

Lênh đênh hai ngày đêm, bỗng một hôm trời hầm hập, gió ở đâu rít lên phần phật, ngày càng mạnh. Sóng biển mỗi lúc một cao, tiếng nước sôi lên ào ào kêu quanh đe dọa. Thức buộc mình vào tay lái thuyền, giữ hướng trong cơn giông bắt đầu dậy lên từ cuối đất, thổi vào biển rộng những trận gió ào ạt. Lát sau, gió ngạo nghễ quay cuồng, xoáy vào nước điên dại. Những cột nước vọt lên cao đến hàng chục thước bỗng ở đâu hiện ra, rồi hụp xuống làm thành những vực sâu hun hút. Cắn răng chống trả cơn thịnh nộ của thiên nhiên, Thức mất hoàn toàn phương hướng. Kiệt sức, Thức buông thả tất cả cho định mệnh, để phó mặc thân mình vào lượng đất trời, nắm chặt lấy tay lái thuyền, chìm nổi trong dòng nước mặn chát vị muối.
Khi tỉnh lại, Thức thấy mình nằm trong khoang một chiếc tầu. Tai loáng thoáng nghe tiếng người qua một thứ ngôn ngữ lạ tai, Thức cố gắng mở mắt ra nhìn. Thủy thủ trên tầu đều là người phương Tây. Da họ đỏ rực, râu ria đen thui xồm xoàm. Hình như họ nói tiếng Bồ Ðào Nha. Thức đưa tay vẫy, khát đến cháy cổ. Một người thủy thủ đến vực đầu Thức lên, đổ nước vào miệng. Nước ngọn lịm, mát đến tận hồn, trôi qua cổ họng. Thức mơ mơ màng màng, nghe có người hỏi :

- Người đi với mày đâu rồi ?

Thức ngạc nhiên, lẩm bẩm: « Ai ? Ai đi với ta ? », rồi lại ngất đi. Khi tỉnh lại, Thức thấy chân tay đã bị trói gô lại. Một người đầu đã chớm bạc, cởi trần phô ra những bắp thịt như đồng mun, ghé vào mặt Thức nói chầm chậm :

- Mày đi thuyền của Tây Sơn là đi về đâu ? Con đàn bà cùng đi bây giờ nó ở chỗ nào ?

Thức chợt rùng mình. Có phải là bóng dáng Băng Vân chăng ? Giông bão kéo đến ba ngày nên chàng không thể trích máu nhỏ vào phiến đá. Vậy, trời đất ơi, Băng Vân sẽ ra sao ? Vì cớ gì mà bọn thủy thủ xôn xao hỏi đi hỏi lại về ¨ con đàn bà ¨ nào đó ? Thức lắc đầu, chỉ tay vào miệng, vào đầu, ý bảo mình không hiểu. Tên thủy thủ già lại bỏ đi.

Ðêm xuống dần. Sau cơn bão, trời quang tạnh hẳn. Gió biển lại ào ạt buốt giá. Sao trên trời giải khắp tầm mắt, từ bắc sang nam, từ đông sang tây, lấp lánh vô tình. Chợt có người khều tay Thức. A, Băng Vân, nàng ở đây ? Thức reo :

- Lạy Trời, Băng Vân còn ...

Băng Vân kêu lên, mặt trắng bệch, tay đã bắt đầu lạnh :

- Chàng, chàng ơi ... Thiếp yếu lắm rồi, đã năm ngày nay thiếp không có một chút dương khí ...

Ðúng lúc ấy, hai tên thủy thủ ở đâu áo ra nắm lấy nàng, gọi ầm lên :

- Ðây, bắt được con đàn bà rồi ! Anh em ơi ! Bắt được rồi !

Thức vùng lên, nhưng lại ngã sấp mặt xuống sàn tầu. Chàng co người ngồi lên thì bị một cái đạp vào gáy.
Thức ngất đi, đầu lơ mơ, tai nghe văng vẳng xung quanh tiếng cười, tiếng hú. Tiếng rên rỉ. Tiếng chửi nhau, tranh giành cãi cọ. Bọn thủy thủ hết đứa này đến đứa khác vồ vào thân thể Băng Vân như những con thú đói đàn bà từ bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng. Chúng sắp thành hàng dài, có đứa mắt hau háu đợi phiên, mũi phập phồng, mồm há chảy ra rớt giãi, xô đẩy chen chúc nhau. Lại tiếng cười. Tiếng rên. Tiếng thở hổn hển. Còn Băng Vân, nàng nằm xoạc cẳng, mắt nhắm nghiền, miệng mím chặt. Cái nàng cần là dương khí. Nàng cắn răng chịu những cơn gió dập mưa sa cuồng bạo, nhưng người ấm dần lên. Ðột nhiên, nàng mở mắt ra cười khanh khách, cười điên dại, rồi gào lên lanh lảnh « ... bọn đàn ông khốn nạn, cứ đè lên đây, tao chấp hết ! ».

Thức ứa nước mắt. Cái giá phải trả để hoàn dương làm người là thế ư ? Khi Băng Vân một ngày nào không còn sợ ánh mặt trời, khi đài hoa trên phiến đá đủ hồng để giải thoát khỏi cõi tù ngục một linh hồn muốn quay lại nẻo dương gian, liệu trái tim nàng có thể nóng lên nhiệt độ bình thường ? Hay trái tim đó sẽ mãi mãi lạnh buốt với khối kỷ niệm đóng băng chung quanh xác ướp của bốn mươi tên thủy thủ đang điên cuồng trong cơn đòi hỏi của xác thịt ? Thức lắc đầu, nước mắt ở đâu ứa ra ướt đầm đìa, tai vẫn vang vang tiếng Băng Vân lanh lảnh kêu, lanh lảnh cười, bập bềnh theo con sóng ào ào nhịp vào mạn thuyền.

Trên nẻo dương gian khốn khổ này, trời sáng dần. Ráng hồng đang nhô lên từ phía đông. Biển trở lại hiền hòa sau một cơn làm mình làm mẩy, đón những cánh chim âu sà xuống lượn quanh tầu tìm mồi. Tiếng chim ríu rít sức sống, nhắc lại cho những kẻ chóng quên rằng luôn luôn còn hy vọng những niềm vui mai sau. Tầu dậïp dờ trôi đi như không phương hướng, muốn đến đâu thì đến.

Bỗng nhiên hàng trăm tiếng súng thần công cùng một lúc nổ lên, sau là tiếng reo hò nghe như ngay bên cạnh. Bọn thủy thủ Bồ Ðào Nha trên tầu nhốn nháo. Chúng quơ quần áo, chạy vội lên boong, hò hét hoảng loạn. Chung quanh chiếc tàu Bồ, sáu chiến thuyền Tây Sơn đã cặp lại, phun hỏa hổ, bắn súng và bắn tên lửa vào. Hỏa hổ đánh thủy rất lợi hại, gặp nước bắt cháy còn ghê gớm hơn trên bộ. Quân Tây Sơn hò reo hô xung phong. Trên tầu những hòm thuốc súng bắt lửa nổ tung lên. Ðầu chiếc tầu chúc xuống, nước cuồn cuộn ào vào, mạn tầu vỡ ra thành từng mảnh.

Cố sức ngọ nguậy, nhưng bị bọn thủy thủ Bồ trói chặt vào thành tầu, Thức không làm sao nhúc nhích được. Những hòm thuốc súng tiếp tục nổ thành loạt, lửa bốc lên như dướn mình với vào vòm trời xanh. Thức có cảm tưởng bay bổng lên không trung như là chim, rồi rơi xuống, phiêu du trong một thứ dung dịch mặn chát nước biển động. Lần cuối, Thức chỉ còn giữ lại được là hình ảnh cái eo biển uốn éo lượn theo viền trí nhớ một tấm bản đồ ướt sũng đang rã ra trong những con sóng nhấp nhô từ muôn đời muôn kiếp.

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen