Samstag, 17. Mai 2014

Út Bạch Lan- Một thời để nhớ

QUÂN TRƯỜNG VÀ CHIẾN TRƯỜNG

Tôi nhập trường VBĐL tháng 12 năm 1965. Tính đến nay chỉ còn một năm nữa là một phần hai thế kỷ. 2015. Năm mươi năm trôi qua cũng khá dài so với đời của một con người. Chiều dài vừa đủ để ký ức đong đầy ngập tràn những kỹ niệm tưởng đã lãng quên hay nhạt nhòa đâu đó. Nhưng không ! Nó vẫn còn lỡn vỡn quanh đây vô ảnh vô hình, nhưng khi được nhắc đến thì nó lại hiện ra như một đoạn phim sống thực còn lưu trử tận trong tiềm thức của mình. Nữa đời đầy oan nghiệt lẫn lộn tiếc nuối chua xót cho thân phận của một thế hệ " Sinh Bất Phùng Thời "

Hai năm trong Quân Trường, tám năm với Chiến Trường, ba mươi chín năm tù tội và lưu vong, nay Tổ Quốc là tổ quốc của người, Dân Tộc là dân tộc của người, quê hương tổ tiên đất đai mồ mã lạ quắt lạ quơ...Nhưng tôi không mất hết, tôi vẫn còn lại trong tôi Quân Trường và Chiến Trường.
- Quân Trường, nơi đó tôi có đàn anh đàn em ( K21 K22 K23 ) và các Sĩ Quan Cán Bộ, Sĩ Quan Tham Mưu Hành Chánh được gọi là "Đồng Môn" cùng đổ mồ hôi như nhau, cùng dìu dắt nhau trên ngưỡng của binh nghiệp với vô vàn kỹ niệm chắc rằng khó có mấy ai quên.

Freitag, 16. Mai 2014

Tài năng và nhân cách: Phải chăng Phạm Duy đã giết Phạm Duy?


Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết? Sở dĩ cần có sự sửa chữa là vì tôi được đọc hai bài của giáo sư John C. Schafer, giáo sư đại học Hubold State University. Một bài viết về Phạm Duy, một bài về Trịnh Công Sơn. Trinh Cong Son Phenemenon và The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy.(1)
(1) Xin vào Google kiếm tìm
Phải nhìn nhận theo thói quen làm việc của người Mỹ, ông John C.Schafer tra cứu rất nhiều tài liệu, dẫn chứng đầy đủ đến nơi đến chốn. Có những tài liệu dẫn chứng khiến tôi giật mình. Chẳng hạn ông dẫn chứng một tài liệu trong tờ Nghệ Thuật, số 38-39, tháng 3, 1995, một tờ báo ở ngay chính địa phương tôi ở mà tôi vô tình không để ý tới. Thứ hai, ông tránh được thiên khiến và ít đưa ra những phê phán tiêu cực.
Nhưng cũng vì thế, ông tránh đề cập đến những “liên hệ có thể” của Trịnh Công Sơn với phía cộng sản qua bạn bè của họ Trịnh như Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như việc TCS hát trên đài phát thanh Sai gon vào ngày 30 tháng 4. Những mối liên hệ này đã được ông Nguyễn Thanh Ty trong bài viết: ” Một quãng đời của TCS” trong đó có phần lật tẩy “Nguyễn Đắc Xuân” trong bài viết : “Trịnh Công Sơn Cao Nguyên bụi đỏ sương mù”. Trong tài liệu của ông Nguyễn Thanh Ty cho hay ngay trong giới đồng nghiệp của Trịnh Công Sơn ở Bảo Lộc đã chia rẽ ra hai phía rõ rệt. Kẻ lên án, kẻ không. Ông John.C Schafer cũng đọc tài liệu này, nhưng không nhắc nhở tới dư luận, tới những vấn đề tranh luận chung quanh TCS. Nhất là những tranh luận ngay sau khi TCS chết như với bài viết mở đầu cho những tranh luận: Bi kịch Trịnh Công Sơn của họa sĩ Trịnh Cung. Đó là những vấn đề nhậy cảm mà ông John. C. Schafer tránh đề cập tới.

Chợ Đại-Cống Thần- Vùng trái Ðệm

Một ngày lạnh cóng và ẩm ướt vì những giọt mưa cuối cùng của mùa Xuân, Ngọc Bích và tôi giã từ Hoàng Cầm và rừng núi Lạng Sơn, vác ba lô lên đường. Lúc này chúng tôi không còn là văn nghệ sĩ của Cục Chính Trị nữa. Sau vài ngày cuốc bộ, mầu tím đen dữ dội của núi rừng đã dần dần không còn đi theo để bưng mắt chúng tôi nữa. Chúng tôi đang đi trong khoảng trời cao mây rộng, rảo bước trên con đường đê dọc theo con sông đào quen thuộc vẫn đang trôi lờ lững trong vùng Nhã Nam, Yên Thế.
Tôi thản nhiên đi qua làng Lan Giới, lờ luôn người đẹp nông thôn. Rồi chúng tôi tới Bắc Ninh. Bây giờ thì tôi đi qua Sông Đuống để nhớ tới Hoàng Cầm... Và nhận ra được cô hàng sén răng đen, ông già phơ tóc trắng, thấy được cả những tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong. Nhưng không thấy được em bé sột soạt quần nâu... vì lúc này là chiến tranh. Buồn. Rồi từ Bắc Ninh, sau khi len lỏi qua những đồn địch đóng lẻ tẻ ở dọc đường số 1, chúng tôi rẽ sang Phúc Yên, Sơn Tây để xuống địa phận Hà Đông.

Vùng trung du lúc này vẫn còn an ninh vì Pháp không có đủ quân để chiếm đóng cả vùng thượng du lẫn vùng trung du hay vùng đồng bằng. Quân Pháp còn đang bận tâm ở chiến trường biên giới. Họ chỉ cho máy bay đi bắn phá những tỉnh nằm ngoài vòng đai lớn bao quanh thành phố Hà Nội, ở những nơi mà họ nghi ngờ là có kho đạn hoặc có Vệ Quốc Đoàn đóng quân.

Dienstag, 13. Mai 2014

30 tháng 4 — Ði tìm thời gian đánh mất

Sài Gòn không còn ngày 


Buổi tối, tôi leo lên sân thượng. Trời tối đen, cái im ắng đến chết người.
Nhưng trong bóng đêm, tôi đã nghe rõ được tiếng của im lặng.
Cái im lặng của cõi đêm, của một cuộc đời, của mảnh đất tôi đang sống đã khép lại.

Chỉ mới hôm qua, những chiếc trực thăng còn lập lòe trên các mái nhà và biệt tăm ngay sau đó vào đêm tối. Rồi chốc lát đã mất hút. Niềm hy vọng như cạn mòn.

Một triệu, một trăm mười ngàn (1.110.000) binh sĩ VNCH đâu rồi cộng với 50 binh sĩ Hoa Kỳ còn sót lại? Và Neil Sheenan trong Innocence perdu đã chả từng nói: “Cette guerre que nous n!aurons jamais gagné’’ Cái trận chiến mà chúng ta đã chưa hề bao giờ thắng. Và nay chúng ta sắp sửa làm một cuộc hành trình qua sa mạc (une traversée du désert) với khô héo cạn kiệt, cô độc và đơn thương một mình, một hành trình gian khổ với đầy bất trắc đe dọa, hiểm nguy.

Ngồi một mình thấy tương lai vô định. Lòng buồn vô tả. Nước mắt tuôn trào không ngăn được. Chuồng chim bồ câu trên sân thượng ăn dần nay chỉ còn vài cặp. Chợt nghĩ. Ít lâu nữa sẽ không có mà ăn nữa.

Bụng tự nhiên nhói lên.

Tương lai như mù mịt. Vui chưa thấy, lo thì không thiếu. Chẳng hiểu chính quyền mới đối xử ra sao? Đó cũng là mối lo của nhiều người, nhất là những người có dính dáng nhiều đến chế độ Sài Gòn.